Thứ Hai, 25 tháng 12, 2023

 BÁC HỒ ĂN TẾT CÙNG NHÂN DÂN NĂM 1946


Câu chuyện này được ông Phan Xuân Thúy, một thợ ảnh kể lại. Ông kể:

“Chiều 30 Tết, Bác Hồ nói với các chiến sĩ: "Các cô các chú nào có gia đình ở Hà Nội thì mời vào đây vui Tết với Bác". Chú em tôi cuống quýt chạy một mạch về nhà báo tin. Được ăn Tết cùng với Bác thì vui quá. Đêm hôm ấy, cả gia đình tôi thao thức, tới quá giao thừa vẫn chẳng ai ngủ được.

Sáng hôm sau - tức mùng 1 Tết âm lịch năm 1946, cái Tết đầu tiên sau khi nước nhà giành được độc lập, ông cụ thân sinh tôi dậy rất sớm, ăn vận áo the, khăn xếp chỉnh tề, với tôi, anh trai Phan Xuân Giực, vợ chồng chị Phan Thị Trâm, Trần Khánh Lục và đứa con gái của họ là Trần Thị Thành cùng tới Bắc Bộ phủ.

Khi chúng tôi tới nơi thì đã thấy gần 50 người - là thân thích của các chiến sĩ khác - cũng đang đứng đợi ở ngoài sân. Bỗng Bác đi ra từ trong dinh với bộ quần áo kaki, đôi dép caosu quen thuộc. Bác đưa tay vẫy chào mọi người nói, ân cần: "Bây giờ xin mời tất cả ra đây chúng ta cùng vui Tết".

Chúng tôi theo Bác đi ra khu vườn trong Bắc Bộ phủ. Suốt dọc con đường rải đá sỏi, hai bên mượt cỏ tóc tiên, những chiếc chiếu được trải ra, cỗ đã bày sẵn. Tôi không còn nhớ chính xác có những món ăn gì, nhưng không có mâm cao cỗ đầy gì cả mà rất đơn sơ, cơm được xới từ trong những chiếc rá. Ông cụ thân sinh tôi cao tuổi nhất, được Bác nắm tay mời ngồi cùng ở mâm đầu tiên, các anh, chị tôi bế đứa nhỏ cũng ngồi kề ngay đấy.

Có mặt trong bữa cơm thân mật này còn có cả ông Đàm Quang Trung - sau này là Thượng tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Dân tộc và ông Vũ Đình Huỳnh - thư ký riêng của Bác. Bác mời cơm ông cụ nhà tôi, hỏi thăm cháu Thành rất ân cần, niềm nở. Tôi liền lấy máy ảnh ra chụp liên hồi. Bữa cơm chỉ kéo dài chừng nửa giờ đồng hồ nhưng tràn đầy xúc động.

Cụ Thúy hồi tưởng: "Hồi kháng chiến toàn quốc, cũng như bao gia đình Hà Nội khác, chúng tôi lên đường tản cư. Khi di tản, tôi chỉ kịp nhét vào túi áo mỗi bức ảnh này vì nó có kích cỡ nhỏ. Những bức ảnh khác được lồng khung treo ở hiệu ảnh phố Hàng Bài, cùng với sập gụ, tủ chè, tư trang, đồ đạc thì mất hết. Tấm ảnh đó luôn nằm trong túi áo tôi, là một kỷ vật, vừa như lá bùa hộ mệnh giúp tôi vượt qua bao quãng đường trường. Khi trở về Hà Nội, điều đầu tiên tôi làm là lấy máy chụp lại, rồi phóng to nó lên đem treo ở vị trí trang trọng nhất trong nhà".

Đến nay, kỷ niệm này vẫn luôn được gia đình ông kể lại với sự trân trọng và niềm xúc động sâu sắc.

Một lần nhân dịp đầu Xuân, Bác Hồ đến thăm đơn vị lính cứu hỏa Thủ đô, trong thời buổi đất nước mới bắt đầu vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trang bị còn sơ sài, nhiều đồng chí biên chế chưa có nghiệp vụ, bộn bề khó khăn....Bác cháu nói chuyện rất vui vẻ, các đồng chí xin Bác một lời chúc đầu Xuân, Bác mỉm cười và nói : Bác chúc các chú thất nghiệp.

Lời chúc giản dị, mộc mạc của Bác gửi gắm một tình yêu bao la Người dành cho lính cứu hỏa nói riêng và nhân dân ta nói chung.

79 mùa Xuân của cuộc đời, Bác Hồ kính yêu luôn gắn mình với dân tộc. Bác đã dành cả cuộc đời vì mục tiêu độc lập dân tộc, giải phóng cho từng giai cấp. Trước khi Bác đi xa, trong Di chúc của mình, Bác luôn thể hiện niềm trăn trở với mục tiêu đó. Đã 46 năm kể từ ngày Bác đi xa nhưng từng câu chuyện về Người vẫn luôn được nhắc đi nhắc lại cho từng thế hệ người Việt Nam. Những câu chuyện giản dị đó chính là hành trang đầy ý nghĩa cho chúng ta phấn đấu, nỗ lực đóng góp công sức vào xây dựng đất nước, sống với lý tưởng cách mạng vĩ đại của dân tộc./.

Thanh Huyền

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2023

KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2023)

 

NGÔI NHÀ SỐ 44/18, ĐƯỜNG TÂN HƯNG, PHƯỜNG 12, QUẬN 5, TP. HCM

(Bài viết trích trong cuốn “Bút ký – Quận 5 trong tôi” xuất bản năm 2020)


Đứng trước ngôi nhà số 44/18, đường Tân Hưng, Phường 12, Quận 5, Tp. HCM tôi ngỡ ngàng xen chút hoài nghi có phải mình tìm sai địa chỉ? Ồ, không! Qua cửa sổ tôi nhìn thấy bức ảnh có lẽ được chụp sau chiến thắng Điện Biên của đại tướng Võ Nguyên Giáp, đứng bên cạnh ông là người sĩ quan còn rất trẻ ắt hẳn là vị gia chủ căn nhà mang biển số nói trên, vị sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, vị lão thành cách mạng Trần Thăng Phúc, người đã có 72 năm tuổi Đảng với cuộc đời binh nghiệp trải dài xuyên suốt ba cuộc chiến tranh, kinh qua nhiều cấp chức chỉ huy trong quân đội, từng là trung đoàn trưởng Trung đoàn xe vận tải, vận chuyển vũ khí lương thực quân trang quân dụng chi viện cho chiến trường miền Nam, từng chịu trách nhiệm hậu cần cho toàn bộ chiến trường Campuchia. Sau năm 75, ông từng là hiệu trưởng trường đào tạo sĩ quan kĩ thuật Wilhem pieck - Tp. HCM. Ấy vậy mà, sự ngỡ ngàng hoài nghi lạ lẫm của tôi có nguyên do từ sự giản dị của ngôi nhà so với bề dày cống hiến của vị chủ nhân. Tôi thiển nghĩ, nếu muốn ông Phúc dư thừa điều kiện để tạo dựng cho gia đình mình ngôi biệt thự hoành tráng như phần lớn những người có quyền chức. Bởi trong thời buổi nhiễu nhương khó phân biệt vàng thau, chuyện cán bộ có thân thế có quyền chức sỡ hữu khối tải sản kết xù là chuyện phổ biến không lấy gì làm lạ, nói vậy cũng không có nghĩa hễ cán bộ có tiền của đều do từ nhũng nhiễu mà ra nhưng nhũng nhiễu thì được sinh ra từ những người có quyền chức. Có người nói với tôi, ngôi nhà ông Phúc thuộc khu cư xá có từ thời trước, tôi không quan tâm lắm về độ chính xác cũng như lịch sữ và năm tháng tồn tại của ngôi nhà, chỉ biết đã là chung cư thì qui cách xây dựng đều có cùng khuôn mẫu. Nhà ông Phúc là một ngôi nhà tầng thấp không sân, không hàng hiên, không rào giậu, ngăn cách lòng đường với trong nhà là cái “ngạch” cửa. Từ ngoài nhìn vào, bề ngang nhà chưa đầy 4m, bên phải là khung cửa sổ hai cánh lấp kính lùa, có lẽ là mới làm lại sau nầy cho đỡ choáng không gian khi mở ra đóng vào, hơi lệch về bên trái là cửa chính của ngôi nhà. Ngay chính giữa, bên trên khung cửa chính có gắn tấm biển “gia đình văn hóa” màu nâu nhạt gần tiệp với màu tường, chắc nó được gắn ở đó từ rất lâu rồi nhưng dấu vết thời gian không làm nó biến dạng nhếch nhác rêu phong mà trang trọng hài hòa, không lòe loẹt phô trương kệch cỡm. Ngôi nhà tuy không bề thế nhưng trông vững chắc thanh lịch và yên bình. Sau một lúc đắn đo nhìn ngó quẩn quanh, tôi gạt bỏ sự hoài nghi đưa tay bấm chuông, tiếng chuông gọi cửa khẽ ngân lên, âm thanh nghe chừng rất mỏng, đủ để người trong nhà nhận ra tín hiệu mà không làm ảnh hưởng đến sự yên tĩnh của nhà hàng xóm liền kề bên cạnh. Tiếng chuông mỏng manh lọt thỏm giữa đua chen ồn ào phố xá, cứ làm tôi vướng vấp không thể không chạnh lòng nghĩ về nó.

Cửa mở. Tôi cởi giày, nhẹ nhàng bước qua khung cửa, không đầy một bước chân, đã thấy mình đứng tần ngần ngay giữa phòng khách. Căn phòng rộng không quá 12 mét vuông. Nền nhà được lót gạch bông có cùng tông màu nâu nhạt, loại gạch được sản xuất từ cách nay rất lâu, được bàn tay người chăm chút cẩn thận, sạch sẽ tinh tươm, tuyệt không có một hạt bụi nào “ dám bám trụ”. Phòng khách được ngăn cách với nhà sau bằng một bức tường. Tựa bức tường là một bệ thờ được xây bằng gạch nung cao khỏang chừng hơn thước, rộng cỡ tầm 5 tấc, dài không tới hai mét. Bên trên bệ đá, nơi cao nhất đặt bàn thờ gia tiên, chỗ thấp hơn là nơi đặt hình tướng Giáp, vài bức ảnh chụp tập thể những người lính, có lẽ là đồng đội của ông, trong số đó chắc có người đã hy sinh ngoài mặt trận khi họ còn rất trẻ, người còn sống cũng phân ly mỗi người mỗi ngả. Kế tiếp là bức di ảnh của người con trai duy nhất của ông, cố Trung tá bác sĩ quân y Trần Hoàng Phong, một người hiền lành đẹp trai tận tụy với nghề với đồng đội đã rời cuộc thế khi tuổi đời còn trẻ, để lại trong lòng người cha già không nguôi nỗi tiếc thương. Trần Hoàng Phong cũng là vị bác sĩ có mặt trong tốp người đầu tiên được điều ra Trường Sa làm nhiệm vụ cứu chữa thương bịnh binh, sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển cả, ngay khi vừa bước chân lên đảo anh đã phải bắt tay vào ca mỗ cấp cứu cho một bệnh nhân đang trong tình trạng nguy kịch. Kể ra điều nầy để thấy rằng, với nhiều mối “quan hệ đặc biệt”, ông Phúc có thừa khả năng can thiệp để đứa con trai duy nhất của mình ở lại đất liền, khỏi phải xông pha vào nơi khó khăn gian khổ chất chồng, trập trùng nguy hiểm, nhưng ông đã không làm vậy mà ngược lại luôn mực động viên con trai mình, trong tinh thần một người lính, hãy vui vẻ lên đường làm nhiệm vụ cao cả góp phần bảo vệ vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đối diện với bệ thờ là bộ bàn ghế kiểu bàn ăn của vài thập niên trước, chủ nhà dành để tiếp khách. Mặt bàn hình oval với 4 chiếc ghế có bọc nệm ở chỗ tựa lưng và mặt ghế ngồi, chân chúng đuợc làm bằng sắt xi, mẫu mã đơn giản nhỏ gọn. Kiểu bàn ghế đó giờ hầu như trở thành của hiếm hoi trên thị trường nội thất. Để kiểm chứng cho lời nói của mình, đêm qua tôi đã tiêu tốn khá nhiều thời gian cho việc dạo quanh các  siêu thị buôn bán nội thất trên mạng, lang thang từ Đông sang Tây từ Nam chí Bắc, tận mắt nhìn thấy hằng hà sa số mẫu mã của thế giới bàn ghế, đủ các kích cỡ sắc màu chủng loại đẹp hút hồn người. Có những bộ bàn ghế “hùng vĩ” dành bày biện trong các phòng khách sang chảnh như kiểu vua chúa, đến bộ bàn ghế dùng cho góc bếp hẹp nhỏ trong ngôi nhà bình dân thời 4.0, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề nhìn thấy kiểu dáng bộ bàn ghế ở nhà ông Phúc. Dù đã biết ngôi nhà không bề thế, phòng khách cũng sẽ rất khiêm nhường nhưng thật tình tôi không khỏi ngạc nhiên trước sự giản đơn đến khó tin dù đó là sự thật hiển nhiên trước mắt, căn phòng ngoài chiếc bệ thờ, vài bức ảnh, bộ bàn tiếp khách như đã nói ở trên, không còn sự hiện diện bất cứ vật dụng tiện nghi nào khác, kể cả những tấm huân huy chương mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân  trao tặng vì sự cống hiến của ông cho hòa bình độc lập nước nhà, có thể ông cất giữ những tấm huân huy chương ghi nhận một thời hào hùng, niềm tự hào của cả một đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng ở một nơi trang trọng nào đó trong ngôi nhà để giữ cho riêng mình, cũng như lưu giữ truyền thống yêu nước cho các thế hệ con cháu.  

 Câu chuyện của vị lão thành cách mạng đưa tôi qua bao khúc quanh cuộc đời ông. Năm 11 tuổi, nhà nghèo buộc ông  phải rời xa gia đình theo người họ hàng lên thị xã Hà Tĩnh kiếm sống, với thân phận ăn nhờ ở đậu của kẻ tôi đòi. Mười một tuổi, ông phải làm công việc nặng nhọc như một người trưởng thành, nào xay lúa giả gạo gánh nước bửa củi cuốc đất, trồng rau, đi kèm theo đó là những lời mắng chửi cay nghiệt phát ra từ miệng người đàn bà mà ông gọi là thím nhiều như cát biển. Công kia việc nọ tất bật suốt tháng quanh năm áo không đủ mặc, cơm không đủ no. Mỗi bữa chỉ được lưng bát cơm với quả cà muối, một mình một xó nhà, bần cùng tủi nhục, nước mắt hẩm hiu chảy dài theo ngày tháng đói khổ. Nói sao cho hết những nỗi cay cực mà ông phải gánh chịu trong bốn năm làm thân phận kẻ tôi đòi. Rồi một ngày cơ may đưa đến, ông Phúc kết thâm giao với một người bạn, sau nầy là Thiếu tướng Trần Công Minh, tham gia đội du kích thị xã Hà Tĩnh, do ông Minh làm Đôi trưởng. Từ đây, ông Phúc như chim sổ lồng, khát vọng tự do đã trở thành sự thật, chấm dứt những năm tháng đọa đày khổ ải. Tuổi 15, ở lứa tuổi dân gian thường nói “ăn chưa no lo chưa tới” nhưng đối với ông Phúc niềm hạnh phúc có được quá lớn lao, bởi ông thấu hiểu thế nào là giá trị của sự giải thoát, giá trị của tự do tự chủ, ông sớm giác ngộ, ngày đêm hăng say công tác, bất chấp mọi hiểm nguy rình rập, bất chấp mọi gian lao chồng chất, ông đối mặt và vượt qua gian nhó để vươn tới mục đích lớn lao cao cả tươi đẹp hơn, không như những nỗi cay cực nhọc nhằn mà trước đây ông phải gánh chịu trong thân phận kẻ tôi đòi. Mười bảy tuổi ông Phúc chính thức gia nhập bộ đội Giải phóng quân, đúng vào ngày 19/8/45, cái ngày nhân dân Hà Tĩnh cùng nhân dân cả nước vùng lên cướp chính quyền từ tay Pháp Nhật. Với riêng ông Phúc, ngày 19/8/45 thật sự có ý nghĩa đặc biệt, đó là cột mốc đầu tiên một dấu ấn quan trọng  mở đầu cuộc đời binh nghiệp của ông. Mười tám tuổi (1946), ông Phúc được đề bạt làm Trung đội trưởng, khi mới vừa tròn một tuổi, kể ra vào thời bấy giờ đó là chuyện rất hi hữu. Ông Phúc chỉ huy Trung đội 2, tiểu đoàn 6, thuộc Chi đội Đội Cung, Trung đoàn 57, Sư đoàn 304 (nghệ An), tham gia trực tiếp đánh vào đồn Pháp đóng ở phía sau nhà ga Vinh, bắt sống toàn bộ quân lính Pháp gồm 30 tên trong đó có tên Nicolas quan 5 Pháp, đó là trận đánh đầu tiên trong cuộc đời làm bộ đội của ông. Năm hai mươi tuổi (19/51948), ông Phúc được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1949 là huyện ủy viên thuộc Quân khu ủy khu Bốn được điều thẳng ra mặt trận Việt Bắc. Năm 1950, ông được giao nhiệm vụ Binh trạm trưởng trạm tiếp tế cho mặt trận biên giới Cao - Bắc - Lạng, dưới quyền chỉ uy của ông Đinh Đức Thiện cục trưởng cục vận tải quân sự. Kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới Cao Bắc Lạng, ông được đề bạt là Đại  đội trưởng đại đội xe 204 chi viện cho Mặt trận Tây Bắc. Trong chiền dịch Điện Biên, ông Phúc với vai trò Tiểu đoàn trưởng tiều đoàn xe cơ giới tham gia vận tải và kéo pháo vào mặt trận. Gần cuối chiến dịch trong lúc đang chỉ huy đơn vị xe vượt trọng điểm dưới lưới đạn pháo dày đặc của quân giặc, ông bị trọng thương gãy xương quay xanh (thương binh ¾) ông vẫn bình tĩnh tiếp tục chỉ huy đơn vị cho đến khi hoàn toàn kiệt sức mới chịu rời trận địa. Ngày kết thúc chiến dịch Điện Biên, vì vết thương quái ác buộc ông phải nằm viện, không được có mặt cùng đồng đội chứng kiến ngày vui lịch sử  “chấn động địa cầu” nầy, mãi để lại trong lòng người sĩ quan trẻ chút bùi ngùi nuối tiếc.

Năm 1965, quân Mỹ ồ ạt đổ bộ vào Việt Nam, tập trung tối đa sức mạnh quân sự để tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đánh phá miền Bắc hòng đè bẹp quân ta, nhanh chóng kết thúc công cuộc chiến tranh ở miền Nam. Phải nói đây là cuộc chiến tranh khốc liệt nhất máu xương nhất mà dân tộc ta phải gánh chịu cái giá phải trả cho một Việt Nam  hòa bình thống nhất độc lập tự do tự chủ. Năm 1965, ông Phúc được phong Trung tá - Trung đoàn trưởng chỉ huy trung đoàn xe vận tải Phả Lại vượt Trường Sơn, băng qua biển lửa, băng qua mưa bom bão đạn, băng qua máu xương đồng đội để chi viện cho chiến trường miền Nam. Tháng 7/74 trên đường cùng đơn vị trở ra Bắc để chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô năm 75, tại tọa điểm 052 trên đèo Mụ Dạ, vào lúc bất ngờ (ba giờ khuya) cả đơn vị ông Phúc rơi vào tọa độ pháo của giặc, nhiều xe trúng bom nhiều đồng đội thương vong. Một lần nữa, ông Phúc lại phải nằm viện không được có mặt trong đoàn quân chiến thắng vào tiếp quản Sài Gòn. Năm 1979, ông Phúc với quân hàm Thượng tá, Tham mưu trưởng Tổng cục kỹ thuật, chịu trách nhiệm đảm bảo khí tài quân trang quân dụng lương thực thuốc men cho toàn bộ chiến trường Camphuchia. Năm 1982, ông Phúc được phong hàm đại tá, làm hiệu trưởng Trường đào tạo sĩ quan kĩ thuật Wilhem pieck - tp. HCM. Sau khi về hưu trở lại với đời thường, ông Phúc tích cực tham gia công tác ở địa phương khi thì làm công tác Đảng, lúc làm công tác mặt trận, công tác xã hội, ông không từ nan bất cứ công việc nào miễn là có lợi cho Đảng cho nhân dân, ông luôn sống lạc quan vui vẻ thân thiện với mọi người nhất là gần gũi với lớp trẻ, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm trách nhiệm với họ .

 Đã quá trưa, câu chuyện cũng đã đi đến hồi kết, đôi mắt loáng ánh nước nhìn về nơi chốn nào đó còn đọng lại trong ông  một quá khứ bi hùng, giọng đau đáu nỗi niềm, ông Phúc khẽ khàng nói,“ cá nhân chú được đãi ngộ như vầy là quá đầy đủ quá hạnh phúc rồi. Dân tộc ta hy sinh quá lớn, quân đội ta luôn trung thành vô hạn với sự nghiệp vinh quang của Đảng, biết bao xương máu đã đổ xuống để làm nên thành quả cách mạng hôm nay, ta nợ nhân dân món nợ quá lớn. Còn đó hàng triệu gia đình thương binh liệt sĩ mà trong họ nỗi đau luôn hiện hữu, xin đừng đối xử vô ơn với họ”. Tôi lặng đi nghe cay cay khóe mắt, cảm xúc chực vỡ òa trước tâm tình của vị lão thành cách mạng còn đậm nguyên chất anh bộ đội cụ Hồ, người lính giải phóng quân năm xưa, mà năm tháng trôi qua cuộn vào dòng chảy nó những ngiệt ngã mất còn, làm đảo lộn đổi thay những giá trị tinh thần, được xác lập bằng nền tảng đạo đức của cha ông, bằng máu xương mồ hôi nước mắt của các bậc tiền nhân. Căn phòng nhỏ vụt bừng sáng trong tôi thứ ánh sáng trong sạch lấp lánh chất ngọc quí đã qua mài giũa. Sự khiêm nhường giản dị của ngôi nhà số 44/18 đường Tân Hưng, phường 12, Quận 5, Tp.HCM, với tôi như biểu trưng cho sự liêm khiết, bản chất tốt đẹp của người cách mạng chân chính, tồn tại giữa thời bạc vàng đang trong cơn “thác loạn”, đạo đức liêm chính bị xoáy mòn, nó hoàn toàn khác biệt đối lập với những tòa biệt phủ triệu đô, những ngôi biệt thự mạ vàng được tạo nên bằng những chiếc vòi tham nhũng như những vòi bạch tuộc hút máu nhân dân, băm nát đất nước nầy cho vào túi tham những đồng tiền tội ác. Và lũ chúng đã đang sẽ phải trả giá cho tội ác của mình. Tôi ra về lòng bâng khuâng bao nỗi, cảm ơn ngôi nhà khiêm nhường của vị lão thành cách mạng Trần Thăng Phúc trong buổi sáng mai nầy, đã tiếp lữa cho tôi tin vào những điều tốt đẹp đang còn đó.    

NGUYỄN BÍNH HỒNG CẦU

 

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2023

KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2023)

QUÂN ĐỘI ANH HÙNG CỦA DÂN TỘC ANH HÙNG

 79 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc, được nhân dân hết lòng thương yêu, đùm bọc, nuôi dưỡng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, anh dũng chiến đấu hy sinh, từng bước trưởng thành, lớn mạnh.


Ngay trong những ngày đầu mới thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, dũng cảm chiến đấu, lập nên chiến công Phai Khắt, Nà Ngần, mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chiến công nối tiếp chiến công, Quân đội ta đã cùng với toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa, đưa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Quân đội đã làm nòng cốt cùng toàn dân và các lực lượng vũ trang chiến đấu và giành thắng lợi vang dội trong các chiến dịch Việt Bắc (năm 1947), Biên Giới (năm 1950) và cuộc quyết chiến chiến lược Đông Xuân (năm 1953 - 1954) với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” (năm 1972) đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975; góp phần hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những kỳ tích hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh.

Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, cùng toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Là đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân, 79 năm qua, Quân đội luôn dựa vào dân để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời luôn sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản và cuộc sống yên bình của nhân dân; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương, tăng cường “thế  trận lòng dân”; chủ động giúp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; tích cực tham gia các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói giảm nghèo”, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, mỗi khi thiên tai, dịch bệnh xảy ra, cán bộ, chiến sĩ quân đội và các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên đã dũng cảm, xả thân bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, giúp nhân dân khắc phục hậu quả, ổn định đời sống và sản xuất, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân, tô thắm thêm truyền thống và phẩm chất cao đẹp bộ đội Cụ Hồ.

Vừa làm tròn chức năng của một đội quân chiến đấu, toàn quân đã luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, tích cực lao động, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống bộ đội. Trong kháng chiến, Quân đội đã vừa đánh giặc, vừa sản xuất, thực hiện “thực túc - binh cường”, trực tiếp tạo ra của cải, vật chất phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc. Trong hòa bình, Quân đội lại vừa xây dựng, vừa tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế đất nước; góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng trong thời kỳ mới.

Trải qua 79 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Quân đội ta thật sự là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng; làm tròn chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang; xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ kính yêu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta diễn ra trong bối cảnh có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức lớn. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông ngày càng gay gắt. Các thế lực thù địch tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng nước ta một cách tinh vi, trắng trợn. Cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng diễn ra hết sức gay gắt và ngày càng quyết liệt. Điều đó đang đặt ra yêu cầu rất cao đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; trong đó, vấn đề xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại là nội dung đặc biệt quan trọng và là yếu tố cơ bản để quân đội ta hoàn thành trọng trách là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng quân đội về chính trị là nguyên tắc cơ bản hàng đầu là vấn đề có tính quy luật và có ý nghĩa sống còn đối với quân đội ta. Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị thực chất là xây dựng quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đồng thời, đòi hỏi phải luôn giữ vững và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Đây là vấn đề cốt tử có tính nguyên tắc và cũng là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta trong 78 năm qua. Bài học đó càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong giai đoạn cách mạng hiện nay, có ý nghĩa quyết định nhất là phải xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh, có sức chiến đấu cao, có năng lực lãnh đạo toàn diện, làm tốt chức năng tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ quân sự quốc phòng.

Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, tin tưởng Quân đội nhân dân Việt Nam nêu cao khát vọng phát triển “đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, “dân tộc cường thịnh, trường tồn”, khơi dậy khát vọng cống hiến của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đem trí tuệ, tài năng, nhiệt huyết của mình, tiếp tục phát huy phẩm chất tốt đẹp bộ đội Cụ Hồ, phát huy truyền thống vẻ vang, thể hiện rõ vai trò của một đội quân chiến đấu, trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu.

                                                                       Ths. Nguyễn Thanh Hoàng

Thứ Tư, 6 tháng 12, 2023

KỶ NIỆM 34 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM (06/12/1989-06/12/2023)

 

BÊN PHỐ TRĂM NĂM

Tôi vẫn thích ngồi lại bên những người già. Mỗi người già trong cuộc đời này đều là một kỳ quan. Khi những người già kể cho tôi nghe về cuộc đời họ, trong ký ức xa xôi đó là dáng hình của phố, là chân dung một giai đoạn, một thời đại sống; cả niềm vui lẫn nỗi buồn của một kiếp con người. Những người già luôn khiến tôi thấy ngưỡng mộ - như một người già của phố trăm năm mà tôi đã được ngồi lại vào một buổi chiều nắng đổ qua thành phố. Ông là cựu binh Nguyễn Thanh Hà – người đã lặng lẽ mấy mươi năm qua đi khắp miền Nam tìm hài cốt đồng đội.

Đồng chí Phan Văn Mãi - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố đã đến thăm thương binh Nguyễn Thanh Hà

NGƯỜI CỰU BINH GIÀ LẶNG LẼ TÌM ĐỒNG ĐỘI

Ngày 22/11/1965, trong cuộc chiến không cân sức với địch tại Dầu Tiếng (Bình Dương), gần 200 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Thân xác các anh nằm lại với rừng suốt nửa thế kỷ, cho đến khi được đồng đội tìm thấy. Giữa trưa nắng Dầu Tiếng, khi những mảnh xương liệt sĩ đầu tiên xuất hiện lẫn trong bùn đất, có người cựu binh già vừa gọi điện báo tin khắp nơi cho anh em bạn bè, vừa khóc nức nở. Cuộc tìm kiếm này, ông đã nguyện, nếu không có kết quả, ông cũng sẽ nằm lại với đồng đội.

ĐỂ TRẢ NỢ ĐỒNG ĐỘI

Cho đến bây giờ, khi nhắc về cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở huyện Dầu Tiếng (Bình Dương) vào năm 2015, cựu binh Nguyễn Thanh Hà vẫn không nguôi niềm xúc động. Đồng đội ông, 187 người đã ra đi, không kịp nói một lời vĩnh biệt, không được nhớ mặt gọi tên. Thân xác các anh vùi sâu vào lòng đất mẹ. 50 năm sau, bầu trời hòa bình đã xanh biếc trên đầu.

Ngày 22/11/1965, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9 của ta mở đợt tấn công vào căn cứ Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 của Mỹ - Ngụy. Trước trận đánh tại Làng 10 – Dầu Tiếng (nay là ấp Đồng Trai, xã Định Hiệp, huyện Dầu Tiếng), trinh sát báo về địch có 47 xe tăng, trung đoàn chuẩn bị lực lượng tấn công. Vậy nhưng đêm đến, chúng bí mật tập hợp thêm 100 xe nữa. Quân ta chiến đấu kiên cường, gây cho địch không ít tổn thất. Nhưng vì quá chênh lệch về lực lượng, bị phản công, rất nhiều chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. “Ba ngày sau, địch gom xác chở anh em về căn cứ, kêu gọi dân làng ra nhận. Nhưng không ai nhận. Cuối cùng, chúng mang xác các anh em chất lên ba xe tải, rồi ra đổ xuống mương nước trong rừng” – cựu binh Nguyễn Thanh Hà xót xa.

Con mương chiều ngang 2m, sâu khoảng 2m, dài 400m. Sau nửa thế kỷ, mương nước đã cạn. Vậy mà phải đến lần tìm kiếm thứ tư, sau gần ba ngày đào xúc cật lực, đội tìm kiếm mới thấy được dấu tích liệt sĩ từ chiếc dép râu. “Đào ngày thứ nhất không tìm thấy gì. Ngày thứ hai, đào đến hai giờ chiều cả hai xe xúc đều hỏng cùng một lúc, không cách gì sửa được. Tôi gọi ra Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người ngoài Hà Nội, xin ý kiến. Các thầy nói rằng, các liệt sĩ đang thử thách chúng tôi. Giờ phải làm mâm cơm cúng mặn, khấn vái các anh cho gặp. Tôi làm theo, đốt bảy nén nhang vái khắp bốn phương trời mười phương Phật, mong anh em có linh thiêng hãy dẫn đường cho chúng tôi tìm thấy. Tôi cứ làm theo thành khẩn như thế. Đã tìm đến mấy lần rồi, lòng tôi vô cùng xót xa, không có lý do gì mà một số lượng hài cốt lớn đến như vậy mà mình không thể tìm ra. Vậy mà rồi kỳ lạ, khi nhang cháy đến một phần ba thì cả hai chiếc xe xúc đều hoạt động trở lại. Chúng tôi tiếp tục đào khẩn trương, cuối cùng đã tìm được” – cựu binh Nguyễn Thanh Hà nhớ lại.

Khi mảnh xương hài cốt liệt sĩ đầu tiên được tìm thấy, mọi người đều vô cùng xúc động. Còn cựu binh Nguyễn Thanh Hà, ông gọi điện báo cho khắp nơi, những người đồng đội, các cơ quan, các cấp thẩm quyền. Ông vừa nói vừa khóc. Cuối cùng, ông và các anh em đã tìm ra nơi các chiến sĩ nằm lạnh lẽo suốt nửa thế kỷ. Hài cốt của các anh, xương sọ, xương ống chân, xương tay lẫn dây nịt, dây võng, khăn gói cơm vắt bằng vải dù…đều còn, gần như nguyên vẹn.

187 hài cốt đã được tìm thấy trong mương nước giữa rừng.

Tôi ngồi trong căn nhà nhỏ yên tĩnh của ông trên đường An Bình (Q.5), như hiển hiện trước mắt mình hình ảnh một người già run rẩy khóc. Đồng đội ông được tìm thấy, cũng có nghĩa là sẽ có câu trả lời về cho gia đình của các anh. Rằng mấy mươi năm qua, con em họ đã nằm lại ở đâu. “Tôi làm công việc này, như để trả nợ cho đồng đội tôi, trả nợ với các gia đình chiến sĩ” – cựu binh Nguyễn Thanh Hà tâm sự. Những cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, ông đi với những người bạn có cùng tâm nguyện. Tháng 11/2019, ông cũng vừa về huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) để bắt đầu một cuộc tìm kiếm khác, tìm lại tên cho các liệt sĩ nằm trong những ngôi mộ vô danh ở nghĩa trang Dòng Chùa, các chiến sĩ đã hy sinh vào ngày 20/3/1973, trong cuộc đối đầu với Pol Pot.

Có lần tìm được hài cốt liệt sĩ Lê Hữu Quốc, hy sinh ngày 12/10/1977 trong trận đánh tại Bến Cầu (Tây Ninh), đưa về gia đình tại Hà Nội. Ông mới biết có người mẹ già đau ốm nằm liệt giường suốt 4 năm trời, vẫn cứ ngóng chờ tin con. Ngày đón con trai trở về yên nghỉ ở nghĩa trang Nhổn (Hà Nội), bà mới cất được gánh nặng chờ mong suốt mấy mươi năm, và rồi bà đã ra đi thanh thản…

Cựu binh Nguyễn Thanh Hà nói, ông không đếm hết những chuyến đi khắp các tỉnh, thành miền Nam để tìm đồng đội. Ông cũng không màng đến những khó khăn vất vả. “Có xe bạn thì đi, không thì nhảy xe khách, về tỉnh nào cũng có đồng đội của mình. Ngủ sao cũng được, có gì ăn nấy, bạn bè đồng đội ở khắp miền Nam này mà” – ông nói. Người cựu binh ấy năm nay đã 77 tuổi, là thương binh hạng nặng, thương tật ¼, mất sức 81%.

“TẤT CẢ ĐỜI TA, SỨC TA ĐÃ HIẾN DÂNG CHO SỰ NGHIỆP CAO ĐẸP NHẤT”

Khi tôi gọi điện ngỏ lời hẹn gặp, cựu binh Nguyễn Thanh Hà cứ ngần ngại, nhiều lần hỏi tôi: “Có cần thiết phải viết không con?”. Ông muốn lặng lẽ làm công việc của mình, trong yên tĩnh. “Công việc của mình làm là trách nhiệm đối với Tổ Quốc, không phải làm để được khen, hay để cho mọi người biết đến. Chỉ cái nào lợi cho dân cho nước thì làm. Tôi vốn dĩ đã nghĩ và sống như vậy từ xưa đến giờ rồi” – cho đến khi được ngồi lại bên ông, tôi mới hiểu đó là lựa chọn của người lính. Lựa chọn lý tưởng mà một thế hệ tuổi trẻ thời đại ông đã chọn. Như câu nói của nhân vật Pavel Korchagin (trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy! của nhà văn Nikolai A.Ostrovsky): “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”.

Con người được sinh ra trong cõi đời này, đều nhận lấy một sứ mạng. Tôi tin rằng, số phận đã chọn ông, chọn để thử thách, và để làm những điều ý nghĩa mà ông đã xem đó như là lẽ sống của đời mình. “Cái chết ai mà không sợ. Vậy mà ông ấy thì không. Bị thương nặng được đơn vị cho phục viên, ông vẫn trốn viện, vào với đồng đội. Không ai viết giấy giới thiệu, không có suất ăn, không được trang bị vũ khí, ông cũng nhất quyết bám trụ với đồng đội, sống chết có nhau” – bà Trần Thị Thanh Quế, người bạn đời của cựu binh Nguyễn Thanh Hà hồi tưởng. Ông không sợ chết, vì nghĩ, gia đình không còn ai thân thích, cả ba anh em đều đi lính, không biết ai còn ai mất. Cả một thời trai trẻ, với ông, đơn vị là nhà, đồng đội là anh em, phía trước chỉ có đường hành quân và những trận chiến.

Chiến tranh ra đi không hẹn ngày về. Người chiến sĩ Nguyễn Thanh Hà năm ấy, trước mỗi trận chiến đều xác định mình sẽ chết. Kể cả cái lần bị thương nặng nằm ngất lịm trong trận chiến ở Đồng Rùm – Tây Ninh. Khoảnh khắc sinh tử ấy, ông đã cố nhìn lại cánh rừng quen thuộc, nhìn bóng dáng đồng đội xung phong, cố thu vào tầm mắt nguồn sáng cuối cùng khi máu đã chảy tràn trên mặt.

“Vậy mà rồi cũng không chết được. Tôi tỉnh dậy ở trạm xá, nghe kể lại rằng có một nữ thanh niên xung phong đã tìm thấy, đưa tôi về rồi lại tất tả lao ra cánh rừng tiếp tục tìm thương binh. Tôi đã tìm kiếm người ân nhân ấy suốt nhiều năm, nhưng không có manh mối. Có người nói với tôi rằng, cô ấy đã hy sinh trong cuộc tìm kiếm hôm ấy…” – cựu binh Nguyễn Thanh Hà ngậm ngùi.

Mỗi người già đều là chứng nhân của thời đại. Ký ức của họ là cả một kho tàng quý giá. Huống gì người già ấy lại trở về từ cuộc chiến. Như cựu binh Nguyễn Thanh Hà. Cuộc đời ông đã mất mát từ khi còn thơ ấu. Chiến tranh tước đi sinh mạng của bố mẹ, ba anh em ông mỗi người một nơi làm con nuôi, rồi từ Hưng Yên xuôi Nam. Bản thân ông mấy lượt làm con nuôi trong các gia đình, từ Việt Nam đến Campuchia. Hết tham gia kháng chiến chống Mỹ lại tái ngũ, sang chiến trường K. Đến giờ, đã bước qua gần trọn kiếp con người, ông vẫn nhớ tất cả, nhớ rõ từng chi tiết, từng trận chiến, từng đồng đội đã hy sinh. Nhớ để bắt đầu những cuộc kiếm tìm…

Cuộc tìm mộ đầu tiên bắt đầu từ năm 1994, tìm mộ bố mẹ ông ở quê nhà. Bố ông hy sinh, nằm lại Ninh Bình, năm 1949. Mẹ ông bị thương khi Pháp đánh vào Ty công an tỉnh Ninh Bình, được đưa về bệnh viện Thanh Hóa, bà mất, chôn ở Thanh Hóa, năm 1951. “Bây giờ ông bà đã được nằm cùng nhau ở Ninh Bình. Khi tìm thấy bố mẹ mình, tôi mới cảm nhận rõ nỗi đau của những gia đình mất con mà chưa tìm thấy hài cốt. Thân nhân của tôi, tôi đã tìm ra rồi. Còn những người thân của các liệt sĩ, họ phải tìm kiếm, chờ đợi đến bao giờ. Nếu không đưa các anh về với gia đình, tôi thấy mình mắc nợ họ, một cái nợ lớn” – cựu binh Nguyễn Thanh Hà tâm sự. 

Những cuộc tìm kiếm của ông vẫn đang tiếp tục. Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Vũng Tàu, sang tận Campuchia…Còn rất nhiều nơi, rất nhiều hài cốt liệt sĩ chưa được tìm thấy. Từ những chuyến đi tìm hài cốt liệt sĩ, ông còn kết nối làm từ thiện, trao quà, tặng nhà cho gia đình địa phương có hoàn cảnh khó khăn.

Người cựu binh ấy đã kể cho tôi nghe về những cuộc chiến, về những hy sinh của đồng đội, về nỗi day dứt khi chưa thể tìm được các anh…Ông không nói gì về mình. Chỉ đến khi rời đi, tôi mới biết, ông là Thiếu tá, 54 năm tuổi Đảng.

BÙI TIỂU QUYÊN (Trích bài viết “Bút ký Quận 5 trong tôi)

 

BOX:

Cựu binh Nguyễn Thanh Hà, sinh năm 1942 tại Hưng Yên. Năm 1962, ông tham gia kháng chiến chống Mỹ (thuộc Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 – Sư đoàn bộ binh đầu tiên của miền Nam). Năm 1977, ông chuyển ngành làm Trưởng phòng tổ chức Tổng công ty Lương Thực, sau đó làm Phó Giám đốc công ty Đồ gỗ xuất khẩu (Sở Ngoại thương TPHCM). Năm 1979, tiếp tục tái ngũ sang chiến trường Campuchia. Năm 1983, ông trở về làm công tác đối ngoại cho đoàn 478 Bộ Quốc phòng.

Ngày 21/3/1967, Mỹ đổ 45.000 quân xuống Tây Ninh nhằm tiêu diệt các cơ quan đầu não của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong chiến dịch Junction City kéo dài 53 ngày đêm. Đơn vị chủ lực lúc đó có sư đoàn 5, sư đoàn 7, sư đoàn 9. “Đêm nào cũng chuẩn bị 10 giờ đêm mỗi chiến sĩ có một nắm cơm, sẵn sàng chiến đấu. Địch đổ quân vào với trên 100 xe tăng, san ủi cây rừng rạp ngọn. Mình đánh vào, chiến đấu từ 5 giờ 30 phút sáng đến 2 giờ chiều. Khi tiếng súng bắt đầu thưa thớt, tôi nấp dưới gò mối, bắn nhử để xác định vị trí địch bắn vào, nhờ thế ta tiêu diệt được 3 xe tăng địch. Sau không nghe súng địch bắn trả nữa, tưởng rằng chúng đã yếu thế, tôi vừa nhỏm dậy hô anh em xung phong thì trúng đạn 12,7 ly, máu tuôn xối xả, chỉ còn kịp xếp nón vải làm tư, cầm máu. Tôi nằm đó và thấy đồng đội tiếp tục xung phong, nhiều người ngã xuống…” – cựu binh Nguyễn Thanh Hà, người trở về từ cuộc chiến tranh, đã chẳng thể nào quên những năm tháng đã sống, đã chiến đấu, vì một lý tưởng chung nhất là giải phóng, hòa bình cho dân tộc.

  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...