I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ; ÂM MƯU CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ SỰ CHỈ ĐẠO
CHIẾN LƯỢC CỦA TA
1. Bối cảnh lịch sử
Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, thực dân Pháp dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị trên
đất nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, chúng nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở
đầu cuộc xâm lược lần thứ hai đối với Việt Nam; sau đó từng bước mở rộng chiến
tranh, chối bỏ mọi cố gắng cao nhất về ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Với ý chí “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ” [1] ,dù chính quyền cách mạng còn non trẻ, đời
sống Nhân dân còn muôn vàn khó khăn, toàn thể nhân dân Việt Nam vẫn một lòng,
một dạ đoàn kết xung quanh Đảng, Mặt trận Việt Minh, nhất tề đứng lên hưởng ứng
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm bảo vệ
đất nước với niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng. Thực hiện đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí
thô sơ và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta đã lần lượt đánh
bại các kế hoạch quân sự của thực dân Pháp, làm nên các chiến thắng vang dội:
Việt Bắc thu đông 1947, Biên Giới 1950, tạo bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng
chiến bước vào giai đoạn mới - giai đoạn ta nắm quyền chủ động chiến lược trên
chiến trường chính Bắc Bộ, mở các cuộc tấn công và phản công địch. Qua thắng
lợi của các chiến dịch Hòa Bình (1951 - 1952), Tây Bắc 1952, Thượng Lào 1953,
vùng giải phóng của ta được mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố,
lực lượng vũ trang cách mạng trưởng thành nhanh chóng; cục diện chiến tranh ở
Việt Nam và Đông Dương chuyển biến mạnh theo chiều hướng có lợi cho quân và dân
ta.
2. Âm mưu và kế hoạch của thực dân Pháp
Bị thất bại liên tiếp
trên các chiến trường khiến cho thực dân Pháp dấn sâu vào thế bị động, nguy
khốn. Phong trào nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh ngày càng lên mạnh. Để
cứu vãn tình hình, Chính phủ Pháp một mặt xin thêm viện trợ Mỹ, mặt khác thay
đổi chỉ huy và kế hoạch tác chiến hòng tìm lối thoát danh dự bằng một thắng lợi
quân sự.
Tháng 5/1953, được sự
ủng hộ của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Hăngri Nava, Tham mưu trưởng lục quân
Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) đóng ở Trung Âu làm Tổng chỉ huy quân
viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tế chiến trường,
Nava đề ra một kế hoạch quân sự toàn diện (sau này được gọi là kế hoạch Nava),
được Chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua ngày 24/7/1953.
Nhiệm vụ trung tâm của
kế hoạch Nava là tới năm 1954, tổ chức khối chủ lực tác chiến gấp 3 lần số binh
đoàn hiện có, chia thành hai bước: (1)Trong Thu - Đông 1953 và Xuân 1954, giữ
vững thế phòng ngự chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18, phòng ngự thượng Lào;
tiến công bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương; xóa bỏ vùng tự do Liên khu
V; (2)Nếu đạt được bước một sẽ chuyển sang tiến công chiến lược miền Bắc, giành
thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho
chúng. Kế hoạch quân sự Nava là cố gắng cao nhất của Pháp và Mỹ trong cuộc
chiến tranh Đông Dương với hy vọng trong vòng 18 tháng sẽ chuyển bại thành
thắng. Thực hiện kế hoạch này, Pháp tăng viện quân viễn chinh, mở rộng khối
quân cơ động, ráo riết bắt thanh niên vào lính ngụy, phát triển phỉ vùng rừng
núi. Mùa hè và mùa thu năm 1953, địch mở hàng chục trận càn quét lớn nhỏ ở Bắc
Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ, đánh phá ác liệt các căn cứ của ta; tháng 7/1953,
chúng cho quân nhảy dù tập kích Lạng Sơn; tháng 8/1953, chúng rút lực lượng ở
Nà Sản về tăng cường ở đồng bằng Bắc Bộ.
Giữa tháng 11/1953, bộ
đội chủ lực của ta thực hiện kế hoạch tiến lên Tây Bắc, một bộ phận tiến sang
Trung Lào phối hợp chiến đấu với Quân đội Pathet Lào. Trước tình hình đó, Nava
buộc phải cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm chặn bước tiến của quân ta.
Kế hoạch Nava bị đảo lộn, chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với ta. Chấp
nhận cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ, Nava tập trung mọi cố gắng, với sự giúp
đỡ rất lớn của Mỹ, xây dựng Điện Biên Phủ - vị trí có ý nghĩa chiến lược không
chỉ đối với Tây Bắc Việt Nam mà cả vùng Thượng Lào và Bắc Đông Dương thành một
tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “một pháo đài bất khả xâm phạm” , gồm 49
cứ điểm, chia thành ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, có cơ cấu phòng ngự vững chắc.
Địch đã cho tập trung ở đây hơn 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17
tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe
tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới, với ý đồ thách thức quân
và dân ta, nghiền nát quân chủ lực của ta.
3. Sự chỉ đạo chiến lược và chuẩn bị của ta
Nhận rõ thủ đoạn của
thực dân Pháp trong kế hoạch Nava, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự, phân tích sâu sắc thế
chiến lược giữa ta và địch, ra nghị quyết thông qua kế hoạch tác chiến Đông -
Xuân 1953 – 1954, giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính
diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông
Dương, nhấn mạnh phương châm chiến đấu: “tích cực, chủ động, cơ động, linh
hoạt” . Nghị quyết của Bộ Chính trị được quán triệt tới các cấp, các ngành; Bộ
Tổng tham mưu đặt kế hoạch tác chiến cụ thể cho các chiến trường; các kế hoạch
phối hợp tác chiến giữa ta với Lào, Campuchia cũng đã được hoàn toàn nhất trí;
mọi việc chuẩn bị và công tác tổ chức lực lượng được triển khai mạnh mẽ.
Để phối hợp với cuộc
tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, Đảng và Chính phủ ta đã chủ
trương mở cuộc tiến công địch trên mặt trận ngoại giao. Ngày 26/11/1953, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm của Nhân dân ta: “... Cơ sở của việc đình
chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của
nước Việt Nam” đã tạo tiếng vang lớn, thu hút sự quan tâm, đồng tình, ủng hộ
của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đối với cuộc kháng
chiến chính nghĩa của nhân dân ta.
Trên cơ sở nắm chắc
mọi âm mưu, hành động của địch, phân tích, đánh giá tình hình một cách khoa
học, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ,
thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy và giao cho Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội trực
tiếp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
thị “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà
cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy,
toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được” [2] ; dặn
dò Đại tướng Võ Nguyên Giáp: phải đánh thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc
thắng không đánh. Cùng với đó, Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp
mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Với ý nghĩa đặc biệt quan
trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung đại
bộ phận chủ lực tinh nhuệ gồm 04 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với
tổng quân số trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ. Chấp hành quyết định của Bộ Chính
trị, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương. Cả nước
đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng” . Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết,
ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến
công địch. Cả một hậu phương rộng lớn của đất nước, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên
khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc đến vùng du kích và căn cứ du
kích ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng mới giải phóng ở Thượng Lào, đều dồn sức người,
sức của với hơn 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng
về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
Để tạo thuận lợi cho
trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ
lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường: (1) Tiến công Lai
Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc; (2) Phối hợp với quân giải phóng Lào
mở chiến dịch tiến công vào Trung Lào; (3) Tiến sâu xuống Hạ Lào và Đông
Campuchia; (4) Tiến công trên mặt trận Bắc Tây Nguyên; (5) Phối hợp tiến công
phòng tuyến địch tại Thượng Lào. Với 5 đòn chiến lược trên, chẳng những ta đã
tiêu diệt nhiều địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn mà còn làm phá sản
âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Nava ở đồng bằng Bắc Bộ, buộc chúng phải
phân tán các nơi để đối phó với ta. Đồng thời, ở chiến trường trung du và đồng
bằng Bắc Bộ, quân và dân ta cũng đánh mạnh ở tuyến ngoài và sau lưng địch; các
địa phương ở Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ đã đẩy mạnh tiến công quân
sự, chính trị, kết hợp với “ngụy vận” để phối hợp với chiến trường chính.
II. DIỄN BIẾN, KẾT QUẢ CỦA CHIẾN DỊCH
Ngày 25/01/1954, các
đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến
“đánh nhanh, giải quyết nhanh” . Nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng
ngự vững chắc ở Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã thay đổi phương
châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc” . Đây là quyết định đúng đắn nhưng
ta cũng gặp không ít khó khăn: thời gian tác chiến dài hơn, thay đổi về cách
đánh nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố
trí hệ thống hoả lực của chiến dịch. Với địa hình hiểm trở, việc kéo pháo vào
tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn, nay lại phải kéo pháo phân tán ra
các trận địa mới trên các điểm cao để tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ, bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng khó khăn
hơn. Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân
và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Sau khi công tác chuẩn
bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến
dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng:
Đợt 1: Từ ngày 13/3
đến ngày 17/3/1954, quân ta đã mưu trí, dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam
và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ hệ thống phòng ngự trên hướng Bắc
và Đông Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; mở toang cánh cửa cho quân ta
tiến xuống vùng lòng chảo và khu trung tâm. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của
địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác và 3 đại đội ngụy Thái tan rã. Một số
lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá hủy hoàn toàn, hầu
hết các máy bay chiến đấu trong vùng lòng chảo đều bị ta tiêu diệt.
Đợt 2: Từ ngày 30/3
đến ngày 30/4/l954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu
trung tâm. Ta đã tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong số đó gồm 4 tiểu đoàn
và 9 đại đội (chiếm khoảng 1⁄2 tổng số quân địch ở phân khu Bắc và phân khu
trung tâm); khống chế được phần lớn điểm cao phía đông, phát triển trận địa tới
sát sân bay, thắt chặt vòng vây, chia cắt, khống chế các khu vực còn lại trong
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp
viện của địch cho tập đoàn cứ điểm.
Đợt 3: Từ ngày 01/5
đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại ở phía Đông, diệt
một số cứ điểm phía Tây và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ ngày 06/5/1954, pháo binh và hỏa tiễn của ta bắn dữ
dội vào các cứ điểm địch, mở đường cho bộ binh tiến công. Tại khu đồi A1, sau
khi cho nổ 1 tấn bộc phá tiêu diệt hầm ngầm địch, bộ đội ta chia làm nhiều mũi,
theo các đường hào đánh lên đỉnh đồi. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, Tướng Đờ
Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống.
Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy
về Thượng Lào, đến 22 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Sau 56 ngày đêm “khoét
núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và
dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống
toàn bộ quân địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 xe và toàn bộ vũ khí, kho tàng,
quân trang, quân dụng của địch. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng,
đây là bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, “được ghi vào lịch
sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ
thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” [3] .
III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CỦA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
1. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên
Phủ -chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của
dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử; là chiến thắng của
đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo của Đảng
ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ ngày đầu chống
thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích)
làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng;
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.
Nhân dân ta từ nông
thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già theo lời kêu gọi
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua
giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của, bảo đảm cho chiến trường, tiếp
thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng ngoài mặt trận.
Quân đội ta trưởng
thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác
chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần tiếp ứng cho chiến dịch quân
sự quy mô lớn chưa từng có; cán bộ, chiến sĩ mưu trí, sáng tạo, vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, dũng cảm hy sinh
lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên
Phủ. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã xuất hiện nhiều tấm gương kiên
cường, anh dũng, mưu trí và sáng tạo tiêu biểu như: Tô Vĩnh Diện và Nguyễn Văn
Chức đã hy sinh thân mình để bảo vệ pháo, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá
súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai và còn biết bao tấm gương chiến
đấu, anh dũng hy sinh khác đã làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước của dân
tộc Việt Nam anh hùng.
Trong cuộc kháng chiến
trường kỳ, gian khổ, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, sự giúp
đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhận được sự ủng hộ của nhân
dân các dân tộc bị áp bức ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La tinh, đặc biệt là liên minh
chiến đấu giữa ba nước Đông Dương và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ
trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp.
2. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ
Thứ nhất, là đỉnh cao
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo cơ sở căn bản và quyết định cho
việc đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã đánh dấu chấm hết cho sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ trên bàn Hội nghị, buộc Chính phủ Pháp cùng các bên tham dự phải ngồi
vào bàn nghị sự, ký Hiệp định Giơnevơ (trừ Mỹ) đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
ngày 21/7/1954. Đây cũng là chiến thắng quyết định thắng lợi của ta trên mặt
trận ngoại giao, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần
chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Thứ hai, mở ra giai
đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương
vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước
Chiến thắng Điện Biên
Phủ đưa đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã tạo ra
những thay đổi căn bản trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự,
văn hóa, ngoại giao... cho cách mạng Việt Nam và mở đầu một giai đoạn mới: miền
Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như những đóng góp của
hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam đã củng cố niềm tin của
Nhân dân hai miền vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Phát huy tinh thần
chiến thắng Điện Biên Phủ - “độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng”, vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành
được nhiều thắng lợi to lớn, đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ
và đội quân chư hầu, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ ba, khẳng định
đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sự lớn mạnh, trưởng thành
của Quân đội nhân dân Việt Nam
Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã chứng minh chân lý: Trong thời đại ngày nay, một nước nhỏ, kinh tế chậm
phát triển nếu có một đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị,
quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới
đồng tình, ủng hộ thì nhất định đánh thắng mọi kẻ thù, dù có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần.
Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ cũng cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Từ 34 chiến sỹ với vũ khí thô sơ năm 1944, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng
trưởng thành. Đây là cơ sở để sau này toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vững tin, dám đánh, biết đánh, quyết
đánh và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước.
Thứ tư, chấm dứt sự đô
hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương, mở đầu quá trình sụp đổ
của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới
Chiến thắng Điện Biên
Phủ thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh
giành độc lập, tự do; buộc chính quyền Pháp phải chấm dứt chính sách cai trị
thực dân, tiến hành trao trả độc lập cho nhiều nước ở châu Á và châu Phi, đồng
thời xem xét lại vị thế và các chính sách của mình đối với các nước vốn là
thuộc địa cũ. Việt Nam là nước tiên phong, là biểu tượng sáng ngời trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra trang
sử mới cho nhân loại, góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Giuyn Roa, ký
giả kiêm sử gia, nguyên Đại tá quân đội viễn chinh Pháp khẳng định: “Trên toàn
thế giới, Oatéclô trước đây không gây tiếng vang bằng, Điện Biên Phủ thất thủ
gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của
phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của
một nền cộng hòa” [4].
3. Bài học kinh nghiệm
“Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng của quân
và dân cả nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp Mỹ. Đây là chiến
thắng vĩ đại của Nhân dân ta và cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc
bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay; chiến tranh xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng dân tộc nhất định thành
công” [5] .Từ thắng lợi vĩ đại này, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh
nghiệm quý báu:
- Một là, xác định
đường lối kháng chiến đúng đắn, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống
giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
- Hai là , phát huy
tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta.
- Ba là, phát huy tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, sáng tạo, tìm tòi, xác định đúng đường
lối cách mạng và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Bốn là , xây dựng
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân -
nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Năm là , kết hợp
chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sự ủng
hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế.
IV. PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Tiếp nối Chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, dân tộc ta đã viết tiếp bản anh hùng ca chói
lọi trong thời đại Hồ Chí Minh, lập nên những chiến công hiển hách: Chiến thắng
“Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Trong gần 40 năm đổi
mới, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm,
bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng,
khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững;
niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày
càng được củng cố, nâng cao. “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói
rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay” [6] .
Những năm qua, Đảng,
Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính
sách và dành sự ưu tiên, quan tâm cho phát triển toàn diện vùng Tây Bắc. Cùng
với đó, Đảng bộ và Nhân dân các tỉnh vùng Tây Bắc đã tập trung xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh, khai thác, phát triển kinh tế, xã hội của các địa
phương trong vùng; chú trọng các lĩnh vực thuộc thế mạnh của vùng, phát triển
kinh tế du lịch gắn với văn hóa, lịch sử, sinh thái; kết hợp chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững
chắc, tạo nên nhiều thay đổi to lớn trong diện mạo và phát triển; đóng góp quan
trọng vào bảo đảm sự ổn định và phát triển của cả nước.
Với tỉnh Điện Biên,
phát huy tinh thần Chiến thắng Điện Biên Phủ, tỉnh đã tập trung xây dựng, củng
cố hệ thống chính trị, chú trọng khai thác các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh,
các mặt kinh tế - xã hội được duy trì ổn định và phát triển liên tục. Nhiều năm
liền Điện Biên duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, riêng năm 2022, Điện
Biên đứng thứ 2 về tốc độ tăng trưởng trong số 14 tỉnh Trung du và miền núi
phía Bắc, xếp 24/83 tỉnh thành trong cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, thu hút đầu tư đạt
khá, cải cách hành chính chuyển biến rõ nét; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
của tỉnh tiếp tục được tăng cường, bộ mặt đô thị và nhiều vùng nông thôn đổi
thay, tiến bộ; an sinh xã hội được đảm bảo, tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo
giảm, đời sống của nhân dân các dân tộc từng bước được cải thiện. Các di tích
của chiến trường Ðiện Biên năm xưa như: Đồi A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm,
Him Lam, đồi Ðộc Lập, cầu Mường Thanh, Sân bay Mường Thanh và hầm chỉ huy tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được gìn giữ, bảo tồn và phát huy, trở thành điểm du
lịch hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.
Dự báo trong những năm
tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi nhanh chóng, phức
tạp, khó dự báo. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi sẽ có nhiều khó khăn, thách
thức phức tạp phát sinh; kinh tế thế giới giảm sút, cạnh tranh chiến lược, cạnh
tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt; tranh chấp chủ
quyền biển đảo diễn biến phức tạp; cuộc xung đột quân sự giữa Nga - Ucraina và
các lệnh trừng phạt của Mỹ, phương Tây đối với Nga có thể còn kéo dài, tác động
đến địa chính trị, địa kinh tế, an ninh năng lượng và chuỗi cung ứng toàn cầu;
khoa học công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ;
biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề về an ninh truyền thống,
phi truyền thống ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt, có thể đe dọa nghiêm
trọng đến sự ổn định và phát triển bền vững.Trong nước, mặc dù chúng ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng
trước nhiều khó khăn: bốn nguy cơ Đảng ta xác định vẫn còn hiện hữu; môi trường
chính trị, văn hóa tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng,
tiêu cực. Các thế lực thù địch vẫn không ngừng gia tăng thực hiện “diễn biến
hòa bình”, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền... để can
thiệp vào công việc nội bộ nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi
mới của Nhân dân ta.
Tình hình đó đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát
huy cao độ nội lực; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà
nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng; giữ vững và tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân
và Quân đội các nước; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo dựng
thời cơ, vượt qua thách thức, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân
tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh
con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời có kế sách ngăn ngừa nguy
cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ngày nay, phát huy
tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc
quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tiếp
tục xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi
mọi tầng lớp Nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên quyết, kiên trì bảo vệ,
giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; kế thừa và phát huy truyền thống hòa hiếu
của dân tộc, coi trọng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đẩy mạnh quan hệ hữu
nghị, hợp tác, cùng phát triển với các nước trên thế giới, tạo thế đan xen có
lợi trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết các tranh chấp, bất đồng
bằng phương pháp hòa bình; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực với nước
khác.
Kiên trì đường lối
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân gắn với xây dựng hệ thống chính trị
từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh. Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, dựa vào
nội lực là chính; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, đối ngoại, kinh
tế, văn hóa, xã hội; phát triển kinh tế gắn với bảo vệ quốc phòng an ninh; xây
dựng và không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Lực lượng vũ trang
nhân dân mà nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục phát huy
vai trò chủ đạo trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân
vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến
thẳng lên hiện đại. Xây dựng cấp ủy, tổ chức Đảng trong Quân đội và Công an
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; giáo
dục và rèn luyện cán bộ, chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng,
Nhà nước và Nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, góp
phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân
quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với
nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Chủ động đấu tranh
phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, phòng ngừa, ngăn chặn
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo đảm an ninh
kinh tế, an ninh thông tin truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Xử lý
hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các điểm
nóng nhất là đối với khu vực Tây Bắc. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã
hội chủ nghĩa, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Kỷ niệm 70 năm Chiến
thắng Điện Biên Phủ là dịp chúng ta thêm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang
vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua
mọi sóng gió đi đến bến bờ vinh quang. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi
mãi là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khơi dậy và hiện thực
hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phấn đấu đến giữa thế
kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG
ƯƠNG
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2011, tập 4, tr.534.
[2] Hồ Chí Minh tiểu sử, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội 2006,
trang 462
[3] Lê Duẩn: Dưới cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ
nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới , NXB Sự Thật, Hà Nội, 1970, Tr
90.
[4] Giuyn Roa, Trận Điện Biên Phủ, Nxb. Giulia, Pari, 1963, tài
liệu dịch Thư viện quân đội, 1984, tr.284
[5] Lời đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Bảo tàng Điện Biên Phủ
ngày 7/5/1964.
[6] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong “Báo cáo
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét