Cách đây 36 năm, tại trụ sở UNESCO ở
Paris, Khoá họp lần thứ 24 của Đại hội đồng UNESCO đã ra Nghị quyết vinh danh
Bác Hồ kính yêu của chúng ta là “Anh hùng Giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa
kiệt xuất”.
Việc ra Nghị quyết vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với nhân dân
tiến bộ trên thế giới. Đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những
đóng góp, cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đấu tranh
chung của nhân dân Việt Nam và thế giới; đồng thời tôn vinh, đề cao lý tưởng
cao đẹp, bản sắc văn hóa và khát vọng của Người và dân tộc Việt Nam về một thế
giới hòa bình, bình đẳng và hạnh phúc. Tư tưởng, giá trị nhân văn, đạo đức và nhân
cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức lôi cuốn, khích lệ các dân tộc bị đô hộ,
đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do, công lý và tiến bộ xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chính là đại sứ hòa bình và hữu nghị của nhân dân thế giới, là cầu nối
“mang tình anh em của nhân dân ta đến nhân dân nước bạn và đưa tình anh em nước
bạn chuyển lại cho đồng bào ta”.
Việt Nam, một đất nước liên tục trải qua các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm và chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, là
quốc gia hơn ai hết hiểu thế nào là giá trị của hòa bình. Với truyền thống hòa
hiếu, hữu nghị, người Việt luôn tìm cách gìn giữ hòa bình, tránh chiến tranh và
chỉ buộc phải chấp nhận chiến tranh khi giới hạn cuối cùng là chủ quyền quốc
gia, độc lập dân tộc bị xâm phạm. Tinh thần ấy không bao giờ ngừng tắt mà nó
luôn có sức thôi thúc, lan tỏa trong đời sống con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kế thừa tinh thần ấy trên hành trình đi tìm đường cứu nước và phát huy mạnh
mẽ trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của
dân tộc, vì tiến bộ và hòa bình của nhân loại.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu
cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc. Với một sự nhạy cảm
đặc biệt, Nguyễn Tất Thành sang nước Pháp, đến tận châu Âu, Người đi để mở rộng
tầm mắt, nhìn ra các chân trời, đã đi không biết qua bao nhiêu nơi, qua các
biển lớn, các xứ sở. Người làm rất nhiều nghề, những nghề lao động chân tay lam
lũ bị khinh rẻ, vừa làm vừa tự học không ngừng. Chính vì thế, Người đã nhìn
thấy từ châu Á, châu Phi đến châu Âu, châu Mĩ, ở đâu con người cũng là một, ở
đâu sự đói khổ, sự cùng khốn, sự nhục nhã của con người cũng là một, ở đâu cũng
có những con người lao động bị bóc lột, bị lừa dối, bị chà đạp, bị giết chóc,
nhất là những người nô lệ ở các dân tộc thuộc địa. Đối với Người, một người dân
mất nước, bị nô lệ thì giá trị tinh thần lớn nhất là “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”. Đó chính là sự đồng cảm đầu tiên của Người về các dân tộc thuộc
địa, của nhân dân lao động trên toàn thế giới, để rồi hình thành nên tư tưởng
độc lập cho dân tộc mình đồng thời là độc lập cho tất cả các dân tộc; giải
phóng dân tộc để giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Hoà bình và phát
triển là khát vọng cháy bỏng của mỗi người dân, là đích đến của nhân loại.
Trong suốt những năm đầu hoạt động cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đi nhiều nước, kết bạn với nhiều người của các dân tộc trên
thế giới, đã gặp gỡ hàng trăm nhân sỹ, danh nhân, tham gia các diễn đàn, lập
hội, viết báo, viết sách, phản ánh về nỗi thống khổ của nhân dân Việt Nam, nhân
dân các dân tộc thuộc địa, tố cáo tội ác của thực dân, đế quốc. Người cho rằng
ở đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ
phi nhân tính, ở đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè,
anh em, đồng chí của nhau. Đi đến đâu, Người cũng để lại dấu ấn sâu đậm trong
lòng bạn bè quốc tế không chỉ là sự giản dị, khiêm tốn, giàu lòng vị tha, mà
còn là trí tuệ uyên bác, tầm nhìn sâu rộng, lý tưởng và hoài bão cao đẹp “hiến
dâng tất cả cho Tổ quốc, cho nhân dân”, cho một “thế giới đại đồng”. Bè bạn năm
châu khâm phục và đánh giá cao về Người. Nhà báo Liên Xô: Ô-xip Man-den-xtan
trong bài “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc” đã viết: “Từ
Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Châu Âu, mà có lẽ
là một nền văn hóa của tương lai…Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của
Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể
lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”. Văn hoá của tương lai
mà Ô-xip Man-den-xtan nói đến chính là Văn hoá hoà bình Hồ Chí Minh. 56 quốc
gia Người đã đến là minh chứng cho tinh thần quốc tế cao cả, là cầu nối cho
tình hữu nghị và hòa bình khắp năm châu. Hình ảnh của Người được ngưỡng mộ,
kính trọng, lan tỏa khắp thế giới: 35 tượng đài, 11 khu tưởng niệm được xây
dựng; 20 con đường, đại lộ và nhiều trường học được đặt tên Người. Ở một số
nước xuất hiện môn “Hồ Chí Minh học”. Nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, chuyên gia,
sinh viên chọn Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu, nhiều tác phẩm văn học, nghệ
thuật ra đời để ngợi ca về Người…Romesh Chandra, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế
giới nói rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh
và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình công lý, ở
đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu nhân dân chiến
đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ
Chí Minh bay cao”.
Trong sự nghiệp hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại một di sản đồ sộ về hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Ngay
sau khi nước Việt Nam giành lại được độc lập, tự do, với cương vị là Chủ tịch
nước, Người đã thay mặt nhân dân Việt Nam, chìa bàn tay hữu nghị, hòa bình với
toàn thế giới: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai. Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà
và bình đẳng với Việt Nam”. Đối với nước Pháp mặc dù là nước đã đặt ách thống
trị tàn bạo lên dân tộc Việt Nam, nhưng đối với Người, việc tiến hành chiến
tranh chỉ là giải pháp cuối cùng. Ngay cả khi bắt buộc phải tiến hành chiến
tranh để bảo vệ đất nước, Người vẫn tìm mọi cách nhằm cứu vãn hòa bình. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và nhân dân Pháp, cho tướng
lĩnh, binh sĩ quân đội Pháp và những kiều dân Pháp ở Việt Nam, cho các chính
phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân các nước, vừa tố cáo cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, vừa kêu gọi đàm phán hòa bình bởi
“Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những
dòng máu đó, chúng tôi đều quý như nhau”. Khi sang thăm nước Pháp, tại khu di
tích lịch sử ở Noóc-man-đi, chính tay Bác đã ném đi những trái mìn, bịt miệng
khẩu đại bác với dụng ý nói lên ý chí và tinh thần quyết tâm giữ gìn hòa bình,
kiên trì ngăn chặn chiến tranh. Đó cũng là thông điệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt nhân dân Việt Nam gửi tới nhân dân Pháp và những người cầm quyền nước
Pháp lúc đó, khẳng định tư tưởng yêu chuộng hòa bình củadân tộc Việt Nam. Cuộc
đàm phán ở Pháp bế tắc, trong một cố gắng cuối cùng, đêm 14/9/1946 Bác ký với
Pháp tạm ước chịu nhiều nhân nhượng từ phái ta để cứu vãn hòa bình. Trong cuốn
hồi ký: “Chuyện một nền hòa bình bị bỏ lỡ”, ông Xanh-tơ-ni viết: “Quả thật đáng
tiếc nước Pháp đã không đánh giá đúng tầm cỡ ông Hồ Chí Minh, không hiểu nổi
vai trò của ông và sức mạnh ông có trong tay”. Nhà sử học Xô viết Cobilets
viết: “Hồ Chí Minh nhà yêu nước vĩ đại Việt Nam đã chân thành giơ bàn tay hữu
nghị cho nhà yêu nước vĩ đại Pháp Đờ-gôn, nhưng Đờ-gôn đã không nắm lấy bàn tay
ấy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng
mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Năm 1950, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta đang trên đà thắng lợi, phong trào hòa bình thế giới phát
triển mạnh, Hội đồng hòa bình thế giới được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chủ trương thành lập Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam nhằm góp phần
vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình của Việt Nam và mở rộng quan hệ với phong trào
hòa bình thế giới. Đây là một trong những tổ chức nhân dân đầu tiên của Việt
Nam do đích thân Bác Hồ là Chủ tịch danh dự đầu tiên. Ủy ban Hòa bình Việt Nam
đã đóng góp tích cực vào việc củng cố tinh thần đoàn kết của các giai cấp, các
tầng lớp nhân dân Việt Nam và kêu gọi những người yêu chuộng hòa bình trên thế
giới ủng hộ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc; đồng thời cũng đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, bảo vệ công lý, chống chiến tranh xâm lược.
Trước những biến động về tình hình quốc tế mới, đặc
biệt là hành động hiếu chiến của đế quốc Mỹ cùng các âm mưu thủ đoạn của chủ
nghĩa thực dân mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn kiên định lập trường trước
sau như một: “Về quan hệ quốc tế, chúng tôi luôn luôn trung thành với chính
sách hòa bình và hợp tác giữa các nước trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa
bình”. Xuất phát từ tư tưởng mong muốn hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố
gắng bằng nhiều con đường, hy vọng làm thức tỉnh lương tri của những người
trong bộ máy điều hành nước Mỹ. Người trực tiếp viết thư gửi các chính giới Mỹ,
kêu gọi nhân dân Mỹ hãy cùng với nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi chấm
dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam, và bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối
với nhân dân Mỹ, những người cũng đang là nạn nhân đau khổ của cuộc chiến tranh
này. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “nhân dân Việt Nam không bao giờ nhầm lẫn nhân
dân Mỹ yêu chuộng công lý với những chính phủ Mỹ đã phạm nhiều tội ác đối với
nhân dân Việt Nam”. Giới cầm quyền Mỹ đã nhiều lần nhận được thông báo về thiện
chí hòa bình của Hồ Chí Minh, nhưng họ đã đáp lại bằng việc tăng cường và mở
rộng diện đánh phá miền Bắc, đưa thêm quân vào chiến trường miền Nam. Tiếng nói
chính nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân Mỹ
đồng tình và chính họ đã tạo nên những làn sóng đấu tranh liên tục chống chính
quyền Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Trong bức thư chúc mừng nhân dân
Mỹ nhân dịp đầu năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ sự quý trọng tình hữu
nghị của nhân dân Việt Nam với nhân dân Mỹ; hoan nghênh và cảm ơn nhân dân Mỹ
đã đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cho
đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, dù đang lâm bệnh nặng, trong lá thư viết
trả lời Tổng thống Mỹ R.Níchxơn ngày 25/8/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng
định: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân
chính trong độc lập và tự do thực sự”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hòa bình là lợi ích của
tất cả các dân tộc, do đó phải đấu tranh cho hòa bình trên thế giới được bền
vững, giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước nhà. Vì thế,
trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Người luôn xây đắp tinh thần quốc tế
trong sáng. Người đã dành những tình cảm thắm thiết với mọi dân tộc trên thế
giới, luôn luôn ủng hộ những cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng bất cứ ở đâu,
quan tâm chí tình tới bạn bè quốc tế, chăm sóc ân cần mọi số phận con người
bằng những việc làm cảm động và thiết thực. Người là hiện thân của tinh thần
“Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em”, hết lòng, hết sức
xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, không ngừng vun đắp
quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng giềng, cống
hiến xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. Người khởi xướng và kết nối mối quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, ba nước trên bán đảo Đông Dương chung một
chiến hào, đoàn kết, kiên cường đánh đuổi hai đế quốc Pháp và Mỹ. Đón đoàn cấp
cao Lào thăm Việt Nam tháng 3/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Hai dân tộc Việt
và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường
Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em...
Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt
được”.Người đã dựa vào sự am tường của mình về văn hóa Trung Hoa, đã vận dụng
kinh nghiệm ngoại giao của ông cha ta trong cách ứng xử với Trung Quốc, để vừa
bày tỏ sự tôn trọng tới lãnh đạo Trung Quốc, vừa đồng thời khéo xử lý quan hệ
Việt - Trung trong mối quan hệ với các nước lớn khác. Nhờ vậy mà Người đã tranh
thủ được ở mức cao nhất sự ủng hộ tinh thần và vật chất to lớn của chính phủ và
nhân dân Trung Quốc dành cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Trong thông
điệp gửi cho nhân dân Ấn Độ, Người nhấn mạnh: “Nhân dân hai nước chúng ta đã có
những quan hệ anh em từ lâu đời. Nền văn hóa và đạo Phật của Ấn Độ đã truyền
sang Việt Nam từ thời cổ. Dưới ách thống trị của thực dân, quan hệ giữa hai
nước chúng ta bị gián đoạn trong một thời kỳ. Nhưng tình hữu nghị cổ truyền
luôn luôn gắn bó hai dân tộc chúng ta”. Người kêu gọi phong trào giải phóng dân
tộc, dân chủ, yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới ủng hộ sự nghiệp đấu
tranh của dân tộc ta. Và cả loài người tiến bộ đứng về phía Việt Nam, kề vai,
sát cánh bên Người, đoàn kết với nhân dân ta trên trận tuyến đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng nước nhà. Người là “biểu tượng xuất
sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” (UNESCO).
Trong trái tim nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là
lãnh tụ kiệt xuất, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, người đồng chí, người thầy
kính yêu, người bạn thân thiết. Trong Điếu văn đọc tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Sầm Nưa ngày 5/9/1969, Cố Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào nói: “Đối
với cách mạng Lào chúng ta, đồng chí Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm chỉ
đạo cho Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tại Lào trước đây, cũng như sau này
cho Đảng Nhân dân Lào khi Đảng đã được thành lập. Đồng chí trực tiếp giúp cho
chúng ta những ý kiến quan trọng về chiến lược, sách lược, về phương thức hoạt
động. Nhờ đó mà trong tình thế vô cùng gay go, gian khổ, Đảng Cộng sản Đông
Dương đã ra sức vận động quần chúng, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Lào đứng lên
làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay mình, tuyên bố nền
độc lập của Lào ngày 12/10/1945. Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tận
tình cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta... Đồng chí Hồ Chí Minh đã chú ý
hướng dẫn việc chuyển hướng trọng tâm hoạt động trong từng thời kỳ, việc xây
dựng cơ sở nhân dân, phát động quần chúng nông dân, xây dựng các khu căn cứ
kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, mở rộng mặt trận thống
nhất, xây dựng Đảng Mác- Lênin chân chính, nhất là vấn đề đào tạo đội ngũ cán
bộ có đạo đức cách mạng và có năng lực công tác”.
Người đã “trở thành một bộ phận của huyền thoại khi
còn sống” trong lòng nhân loại. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức
Ấn Độ, chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại ấn tượng không phai trong
lòng nhân dân Ấn Độ. Người đã chiếm trọn trái tim của người dân Ấn Độ ở mọi lứa
tuổi, mọi tầng lớp, bởi sự hòa nhã, thân ái và khiêm nhường. Hàng nghìn người
dân Ấn Độ đổ ra đường chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đoàn xe của Người đi
qua và rất nhiều người đã khóc khi nhìn thấy Người. Thủ tướng Ấn Độ Neru từng
nói: “Chúng ta được tiếp xúc với một người, người ấy là một phần lịch sử của
châu Á”. Trong chuyến thăm nước Đức, vào khoảng 22h ngày 17/7/1957, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đi dạo với vợ chồng Thủ tướng Đức Ôttô và Johana trên đường phố
Berlin, khi người dân nhận ra và xúm lại, vây quanh, Bác đã bắt tay từng người
rồi hỏi chuyện một đôi nam nữ trẻ tuổi bằng tiếng Đức: “Các cháu có biết không,
sang đến đây Bác mới biết mình là người giàu nhất nước Đức này?”, Người giơ tay
chỉ và nói: “Các cửa hàng lớn đều đề tên HO là của Bác! (HO tiếng Đức là viết
tắt tên cửa hàng quốc doanh)”. Nhà thơ Đức Vili Xanbao đã viết: “Trong tầm nhìn
của Bác, không những cho thấy Người là nhà Quốc tế đáng kính phục mà còn là
nhà văn hóa lớn, giàu tình thương yêu nhân loại”.
Hòa bình và nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là
phải gắn liền độc lập dân tộc với đoàn kết quốc tế; lấy tinh thần thiện chí,
hòa bình để giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, trên cơ sở gắn lợi ích dân
tộc với lợi ích các nước trong khu vực và lợi ích chung của nhân loại tiến bộ.
Tư tưởng đó đang trở thành xu hướng phát triển và giải quyết các vấn đề mâu
thuẫn, xung đột giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới trong thời đại ngày
nay. Cùng với quá trình tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, Việt
Nam luôn kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Đó là sự kết hợp, kế thừa và phát huy những
triết lý truyền thống ngoại giao của ông cha ta về độc lập, tự chủ, hòa hiếu,
chính nghĩa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc… dưới ánh sáng mang tầm thời đại của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh./.
Phan Thủy
Theo khuditichkimlien.gov.vn