Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

KỶ NIỆM 48 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 – 30/4/2023)

 


5 CÁNH QUÂN CHỦ LỰC CỦA TA HẠ 5 MỤC TIÊU CHỦ YẾU

 Ngày 25-4-1975: Các đoàn quân của ta tiến vào các điểm tập kết bao vây Sài Gòn theo quyết định của Bộ Chỉ huy chiến dịch. Nhiệm vụ của 5 cánh quân chủ lực đánh chiếm 5 mục tiêu chủ yếu là những cơ quan đầu não quan trọng nhất của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn - vốn là những bộ phận chính trong guồng máy chiến tranh và kìm kẹp nhân dân miền Nam , do Mỹ điều khiển.

1. Dinh Độc Lập: Từ hướng Đông-Nam, Quân đoàn 2- “Binh đoàn Hương Giang” (Sư đoàn 304, 325 phối hợp Sư đoàn 3/QK 5) cùng đặc công vùng ven và thị xã Vũng Tàu đặt pháo ở Nhơn Trạch bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, tấn công phát triển mũi nhọn sang Cần Giờ, chiếm quận 9, quận 4, phối hợp đánh chiếm Dinh Độc Lập.

Từ hướng Đông, Quân đoàn 4 – “Binh đoàn Cửu Long” từ Biên Hòa- Hố Nai, chọc thẳng vào Sài Gòn, đánh chiếm mục tiêu này, chiếm lĩnh quận 1, 2, 3 và các mục tiêu như Căn cứ Hải quân, Bộ Quốc phòng ngụy, Đài Phát thanh...

2. Bộ Tổng Tham mưu ngụy: Do Quân đoàn 1 – “Binh đoàn Quyết Thắng” (Sư đoàn 320 B, 312), tăng cường thêm Trung đoàn 95 B, một tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn xe tăng, một trung đoàn cao xạ tự hành, được pháo binh, cao xạ và tên lửa chi viện, phối hợp lực lượng địa phương Bình Phước, Bình Dương và một trung đoàn đặc công vùng ven tấn công theo hướng Bắc. Ngoài ra còn có nhiệm vụ tấn công chiếm Bộ Tư lệnh chỉ huy ngụy tại Gò Vấp, Bình Thạnh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.

3. Sân bay Tân Sơn Nhất: Do Quân đoàn 3 – “Binh đoàn Tây Nguyên” (Sư đoàn 316, 320 A, 10) cùng lực lượng địa phương tại Tây Ninh, Củ Chi, hai Trung đoàn Gia Định, các tiểu đoàn của Thành Đội Sài Gòn và các đơn vị đặc công biệt động, được pháo binh, cao xạ chiến dịch chi viện, tấn công theo hướng Tây-Bắc, đảm nhận nhiệm vụ tấn công. Chia các mũi để hợp điểm tại Dinh Độc Lập; chiếm lĩnh Tân Bình, Phú Nhuận.

4. Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô: Từ hướng Tây-Nam, Đoàn 232 (Sư đoàn 3, 5, 9 và 4 trung đoàn độc lập, 1 trung đoàn đặc công) tăng cường thêm tiểu đoàn tăng T54, tiểu đoàn PT85, tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 5 tiểu đoàn pháo cao xạ hiệp đồng với Sư đoàn 8 đảm trách. Sau khi đánh Bộ Tư lệnh ngụy, sẽ có một bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập.

5. Tổng nha Cảnh sát ngụy: Đoàn 232 tổ chức lực lượng cấp sư đoàn và hỏa lực mang vác, thọc vào đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, có bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập. Sau đó chiếm lĩnh quận 5, 6, 8, 10, 11 và huyện Bình Chánh.

(Theo CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ)

Thứ Hai, 17 tháng 4, 2023

HƯỞNG ỨNG NGÀY SÁCH VÀ VĂN HÓA ĐỌC VIỆT NAM 19/4/2023 VỚI THÔNG ĐIỆP: “SÁCH: NHẬN THỨC – ĐỔI MỚI – SÁNG TẠO”; “SÁCH CHO TÔI, CHO BẠN”

 

HỒ CHỦ TỊCH 

VỚI VẤN ĐỀ ĐỌC SÁCH VÀ TỰ HỌC




Trong bài nói chuyện tại hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế họp tại Việt Nam ngày 1 tháng 9 năm 1961, Hồ Chủ tịch đã tâm sự: “Về văn hoá tôi chỉ học hết tiểu học. Về hiểu biết phổ thông: 17 tuổi tôi mới nhìn thấy ngọn đèn điện lần đầu tiên, 20 tuổi mới nghe rađio lần đầu.”  Vậy mà Người đã có một trí tuệ phi thường, một sự hiểu biết đáng khâm phục, đúng như nhà nghiên cứu Vasiliep đã nhận xét: “Hiếm có chính khách nào của thế kỷ XX có thể sánh được với Hồ Chí Minh về trình độ học vấn, tầm hiểu biết rộng lớn và sự thông minh trong cuộc đời”. (1)  

Đạt được tầm hiểu biết ấy là nhờ Hồ Chủ tịch đã không ngừng học tập, nói đúng hơn là không ngừng tự học. Khi nói chuyện với các đảng viên hoạt động lâu năm (Vào ngày 9 tháng 12 năm 1961), Hồ Chủ tịch đã tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học... Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”. Và với Bác, nguyên lý và phương thức học được tóm gọn trong mấy câu sau: “Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học dân”.(2) Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng đi vào tìm hiểu về phương pháp đọc sách báo của Bác Hồ và qua đó chúng tôi cũng cố gắng phân tích và nêu lên được vai trò của sách báo đối với việc tự học của Bác Hồ.



Kế thừa truyền thống ham đọc sách của dân tộc và gia đình, Hồ Chủ tịch đã luôn coi trọng sách báo. Nhưng với Người, đọc sách không chỉ đơn thuần là để giải trí hay để giải quyết các công việc sự vụ, nâng cao các hiểu biết thông thường. Người đọc chủ yêú là để phục vụ cách mạng với niềm khao khát tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Niềm ham muốn khao khát ấy đã đi theo Bác suốt cuộc đời, chi phối mọi hoạt động của Người.

Sinh ra trong cảnh nước mất, lớn lên chứng kiến nỗi bế tắc của bao tầng lớp sĩ phu yêu nước và nỗi thống khổ của nhân dân. Chính Phan Bội Châu cũng phải than rằng:

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si

(Nghĩa là: Non sông mất rồi sống càng thêm nhục. Sách thánh hiền tẻ ngắt càng đọc càng thêm mụ mẫ).

Mặc dầu vậy, Bác Hồ vẫn miệt mài đọc sách. Và không chỉ đọc sách bằng chữ quốc ngữ, sách Hán mà Người còn đọc cả sách Pháp. Với Người, sách chính là “thuốc chữa tội ngu” và là một trong nguồn quan trọng có thể đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi tự do, bình đẳng, bác ái là gì? Từ những thắc mắc đầu tiên ấy về sau cũng chính nhờ sách báo Bác đã tìm ra con đường cứu nước cứu dân và hình ảnh “Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin” đã đi vào lịch sử.

 Khi tìm hiểu về phương pháp đọc của Bác Hồ, bài học đầu tiên mà chúng ta cần phải chú ý đến là: Muốn trở thành người hiểu biết phải đọc cho rộng và khi đọc phải có ghi chép và phân loại ngay các thông tin trong sách báo. Là một người ham hiểu biết Người đã say mê đọc sách ngay từ ngày còn là một cậu trò nhỏ. Và cũng ngay từ khi tuổi trẻ Người đã có một phương pháp đọc rất đáng chú ý : Người thường khuyên và đánh dấu vào những chỗ đọc thấy cần thiết. Trong “Búp sen xanh” Sơn Tùng đã ghi lại lời tâm sự của cậu ấm Phạm Gia Cần, một người bạn của Hồ Chủ tịch thưở thiếu thời: “ở gần Thành, mình học hỏi được nhiều thứ, nhất là cách đọc sách.”(3)

Do ý thức không muốn mất thời gian đọc đi đọc lại để nhặt thông tin, nên khi đọc nghiên cứu tài liệu Hồ Chủ tịch luôn chú trọng đến việc ghi chép, đánh dấu, gạch chân, đóng khung và thậm chí cắt gián. Với cường độ đọc cao, một ngày khoảng trên hai chục tờ báo trong và ngoài nước nếu không có những biện pháp đọc khoa học thì khó có thể nhớ và tổng hợp hết được các vấn đề và thông tin đã đọc. Theo tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, Bác đã từng căn dặn: “Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc được thì chép lấy để dùng để viết”. Không có ghi chép cẩn thận thì những khi cần sẽ phải mất nhiều thời gian để tìm kiếm lại.

Lênin có tác phẩm “Bút ký triết học” nổi tiếng. Trong đó ghi lại những nnhận xét và đánh giá của ông về các trào lưu tư tưởng triết học của các tác gia trên thế giới. Hồ Chủ tịch của chúng ta có “Bút ký đọc sách” trong đó ghi lại những ý chính của các cuốn sách Bác đã đọc cùng với những nhận xét đánh giá của mình. Với Hồ Chủ tịch, đọc sách không chỉ cho riêng bản thân mình mà Người luôn quan tâm đến đối tượng thích hợp liên quan đến các bài viết hoặc thông tin được đăng trong sách báo. Trong “Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch”, Người đã viết: “Mỗi ngày, Cụ xem chừng 25 tờ báo. Báo sáng, báo chiều, báo hàng tuần, báo ngoại quốc. Báo có gì hay, Cụ lấy bút chì đỏ làm dấu vào, rồi bảo anh em xem”.

Theo Người, bất luận làm công việc gì cũng cần phải đọc sách. Người mới học chữ cần đọc để không mù lại, người làm công an cần đọc để nắm tình hình. Những người làm công việc chuyên môn cần phải đọc để nâng cao trình độ. Người làm quản lý lãnh đạo cần phải đọc để quản lý, lãnh đạo tốt hơn. Làm nhà báo, nhà văn lại càng phải đọc. Không chỉ đơn thuần “Cần phải xem báo Đảng”(4), Người khuyên chúng ta : “Muốn có nhiều tài liệu phải xem cho rộng...Xem được nhiều thứ báo chừng nào thì lấy được nhiều tài liệu chừng ấy”(5). Và Người còn nói thêm: “Tìm tài liệu cũng giống như công tác khác, phải chịu khó. Có khi xem tờ báo này có vấn đề này, xem tờ báo khác có vấn đề khác, rồi ghép hai ba vấn đề, hai ba con số làm thành tài liệu mà viết”.(6)

 Không chỉ dừng lại việc đọc rộng và biết cách ghi chép, đánh dấu, bài học thứ hai có thể rút ra trong phương pháp đọc sách báo của Hồ Chủ tịch là đọc luôn phải có suy nghĩ kĩ càng không nhất thời hồ đồ tin ngay theo sách. Người đã từng nhấn mạnh: “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu trong sách. Có vấn đề thông suốt thì mạnh dạn đề ra cho vỡ lẽ, đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt ra câu hỏi: “ vì sao” đều phải suy nghĩ kỹ càng, xem nó có hợp với thực tế hay không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ cho chín chắn.”(7)

Với những sách báo quan trọng, có những từ hoặc vấn đề không hiểu Người có thể đọc đi đọc lại nhiều lần cho đến khi hiểu cặn kẽ mới thôi. Ví dụ điển hình nhất cho nguyên lý này là việc Bác Hồ đọc tác phẩm “Tư bản luận” của Mác và “Luận cương” của Lênin. Chính nhờ việc đọc sâu hiểu kỹ Người đã có thể đem những điều đã đọc vào áp dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đọc sách báo là một công việc nhiều người có thể làm được, nhưng đọc để hiểu được cái thần của sách, đánh giá được những ưu điểm và hạn chế của sách báo thì không phải ai cũng làm được. Muốn làm được điều đó đòi hỏi người đọc phải có sự hiểu biết rộng và khả năng phân tích tổng hợp tốt. Vì lẽ đó chúng ta không ngạc nhiên khi nghe ông Giăng Pho, một người bạn Pháp của Bác Hồ nhận xét: “Chữ Pháp thì tôi biết nhiều hơn anh Nguyễn, điều đó không có gì là lạ vì tôi là người Pháp. Nhưng xem sách lý luận bằng chữ Pháp, nhiều khi tôi phải nhờ anh Nguyễn cắt nghĩa dùm”.

Sinh thời Người rất không tán thành lối đọc để mà đọc, không hiểu biết thực sự những điều đã đọc và theo Người đó là dạng đọc phù phiếm. Trong cuốn “Về vấn đề học tập” trang 58 đã nêu một ý kiến rất xác đáng của Bác: “Có đồng chí thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ tự cho mình là người hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin hơn ai hết. Song khi gặp việc thực tế, thì họ hoặc máy móc, hoặc là lúng túng. Lời nói và việc làm của họ không nhất trí. Họ học sách vở Mác - Lênin. Học để trang sức chứ không phải để vận dụng vào công việc cách mạng”.

Bài học thứ ba và cũng là bài học quan trọng nhất trong phương pháp đọc của Hồ Chủ tịch là vấn đề áp dụng những điều đã đọc được vào thực tiễn cách mạng, thực tiễn cuộc sống. Tiếp thu quan điểm của Nguyễn Trãi: “Sửa mình lấy thiện làm vui. Lập thân đâu phải cứ ngồi đọc suông” và tán thành quan niệm của Lê Quí Đôn: “Đọc sách không cần nhiều, đọc được một chữ đêm áp dụng được một chữ, thế là được”, Hồ Chủ tịch luôn rất chú trọng đem ứng dụng các điều đã thu lượm được qua sách báo. Người đã từng nói: “Siêng xem sách và xem được nhiều sách là quí” nhưng Người đã nhấn mạnh : “Dù xem được hàng ngàn quyển lý luận nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào cái hòm đựng sách.”. Nếu như trong học tập Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh đến chữ hành thì trong đọc sách Người luôn quan tâm đến vấn đề áp dụng. Và phải biết áp dụng dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của thực tiễn. Người rất ghét lối đọc chỉ để mà đọc, với Người đó là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Và sự vân dụng tài tình những điều đã học và đã đọc chính một trong những điểm mấu chốt trong vấn đề đọc sách của Bác Hồ. Trong cuốn con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác - Lênin trang 110, Người đã viết: “Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin nhưng vận dụng một cách có sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng ta đã chiến đấu và giành được thắng lợi như các đồng chí đã biết”.

Khi bàn về “Bản sắc văn hoá Việt Nam” ông Phan Ngọc đã nêu ra một nhận định rất xác đáng truyền thống văn hoá Việt Nam là truyền thống vượt gộp” .  “Vượt gộp có nghĩa là tiếp thu cái mới nhưng đổi mới được nó trên cơ sở cái cũ cũng đã được đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh mới”(8). Và cũng theo Phan Ngọc, bên cạnh Nguyễn Trãi, Hồ Chủ tịch là người đã thực hiện thành công nhất nguyên lý đó. Từ những tinh hoa văn hoá văn minh của nhân loại tiếp thu qua sách báo, từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và đặc điểm thực tiễn cách mạng của Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã biết “vượt gộp” để đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, ngẩng mặt lên kiêu hãnh làm người.

Xã hội loài người phát triển được một phần lớn là nhờ con người có khả năng học tập lẫn nhau cộng hưởng các sức mạnh cá nhân tạo nên sức mạnh to lớn của cộng đồng. Sách báo sẽ là một nguồn tài nguyên vô giá giúp cho con người học tập và không ngừng vươn lên để tự hoàn thiện mình. Bài học tự học qua sách báo của Hồ Chủ tịch sẽ mãi là tấm gương sáng cho mỗi người chúng ta học tập và noi theo. Và một lần nữa chúng ta lại có thêm một minh chứng của việc “Đọc sách, mắt như đèn muôn dặm” (như lời Cao Bá Quát xưa từng nói). Ánh sáng từ đôi mắt ấy mãi mãi sẽ là ngọn đèn soi rọi trên con đường dân tộc chúng ta đi.

Vũ Dương Thúy Ngà

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2023

KỶ NIỆM 48 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 – 30/4/2023)

 TÂM NGUYỆN CỦA BÁC HỒ - GIẢI PHÓNG MIỀN NAM

THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC


Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho đồng bào Miền Nam, Bác nói “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Người xem: “Ở Miền Nam, mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng. Gộp nỗi đau khổ riêng của mỗi người mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”. Chính vì thế tâm nguyện suốt đời của Người là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Bác đã chuẩn bị tỉ mỉ, cẩn trọng những chiến lược cho nước nhà độc lập.

   Lịch sử Việt Nam và thế giới mãi còn lưu giữ hình ảnh xe tăng quân giải phóng tiến thẳng vào đánh chiếm Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975, lá cờ đỏ sao vàng của cách mạng Việt Nam tung bay phấp phới, đánh dấu ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
        Ở thời khắc lịch sử đó, hàng triệu người dân Việt Nam, tự đáy lòng mình, nhớ tới công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người luôn đau đáu nỗi niềm mong cho đất nước được thống nhất, dân ta được tự do, với lời khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.

Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc, Bác đã dành tình cảm, niềm tin mãnh liệt cho đồng bào Miền Nam, cho sự nghiệp giải phóng tổ quốc. Người khẳng định: “Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà."

Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước luôn là tâm nguyện của Người. Bác Hồ đã lãnh đạo cuộc kháng chiến của dân tộc ta để có ngày 30/4/1975, bằng cả sự chăm lo: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu cực, chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Vì vậy, Bác đã cùng Đảng vạch đường, chỉ lối cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước qua những thời kỳ phù hợp với cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn.

Trước hết phải kể đến phong trào Đồng Khởi với nhiều trận đánh trở thành dấu mốc quan trọng, đóng vai trò là tiền đề cho thắng lợi chung của toàn dân tộc. Phong trào này nổ ra từ tỉnh Bến Tre và nhanh chóng lan rộng ra khắp Nam Bộ, trở thành tiền đề cho cách mạng Miền Nam ngày càng phát triển. Sau khi đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đơn phương” và “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Mỹ buộc phải quyết định đưa quân viễn chinh vào Miền Nam Việt Nam và chuyển sang thực hiện “chiến tranh cục bộ”. Chính điều này đã làm cho diễn biến cách mạng Miền Nam càng trở nên phức tạp, chiến tranh lan rộng cả nước, vận mệnh dân tộc đứng trước nhiều thử thách nghiêm trọng. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng trở thành nhân tố quan trọng, vừa kiên định với lập trường, vừa lãnh đạo nhân dân kiên quyết kháng chiến để dành thắng lợi đến cùng. Đây là bước đầu tiên chuẩn bị cho thắng lợi của cuộc cách mạng.
Bước chuẩn bị quan trọng thứ hai là cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968. Tại Phủ Chủ tịch ngày 31/12/1968, Bác đã chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và quyết định mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968, nhằm giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, mở ra một cục diện mới, buộc đế quốc Mỹ phải thương lượng với ta ở Hội nghị Paris. Thắng lợi đó, Bác Hồ đã có thơ chúc tết năm 1968:

“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta”

Đó là bước tập dượt thứ hai cho thắng lợi trọn vẹn 30/4/1975.
Để thực hiện sự chỉ đạo chiến lược của Bác “đánh cho Mỹ cút”, chúng ta đã thực hiện cuộc tập dượt thứ ba - cuộc Tổng tiến công chiến lược 1972. Cuộc tổng tiến công được thực hiện trên ba hướng chiến lược Trị Thiên - Tây Nguyên - Đông Nam bộ, trong đó Trị Thiên là quan trọng nhất. Thắng lợi của chiến dịch tiến công Trị Thiên cùng với các hướng tiến công khác tạo ra cục diện mới trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta trong cuộc tiến công chiến lược 1972, trong đó trực tiếp là tạo thế và lực cho ta tiến hành chiến dịch phòng ngự Quảng Trị (28-6-1972 đến 31-1-1973) thắng lợi, góp phần buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.Từ những kết quả thực tiễn càng thấy được tầm nhìn trước thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi lẽ trước đó, vào cuối năm 1967 Người đã từng khẳng định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội”. Đúng như vậy, thất bại trên chiến trường Miền Nam đã buộc Mỹ đưa máy bay B52 ra đánh phá Miền Bắc “với dã tâm hòng đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”. Nhưng nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, buộc Mỹ phải rút khỏi Miền Nam Việt Nam.

Đó là những bước tập dượt, những đòn chiến công chiến lược để đi đến cuộc Tổng chiến dịch Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, thực hiện được trọn vẹn tâm nguyện của Người.
Kể từ đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến nay. Đó là khoảng thời gian không dài đối với một dân tộc đã có hơn bốn ngàn năm lịch sử, cũng không quá ngắn để chúng ta hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước, giữ gìn truyền thống và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Hướng tới kỷ niệm 48 năm ngày giải phóng miền Nam - thống nhất Tổ quốc, chúng ta kính cẩn nghiêng mình ghi nhớ công ơn của những người đã chiến đấu, hi sinh cho độc lập, tự do của Nhân dân. Để tỏ lòng biết ơn với cha ông, với Đảng, với Bác Hồ, mỗi chúng ta, trước hết là cán bộ, đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu để thực hiện thật tốt mong ước cuối cùng trong Di chúc của Người: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.


Hoàng Thị Trang

Thứ Hai, 3 tháng 4, 2023

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - ĐẠI SỨ HÒA BÌNH





Cách đây 36 năm, tại trụ sở UNESCO ở Paris, Khoá họp lần thứ 24 của Đại hội đồng UNESCO đã ra Nghị quyết vinh danh Bác Hồ kính yêu của chúng ta là “Anh hùng Giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất”.

Việc ra Nghị quyết vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp, cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân Việt Nam và thế giới; đồng thời tôn vinh, đề cao lý tưởng cao đẹp, bản sắc văn hóa và khát vọng của Người và dân tộc Việt Nam về một thế giới hòa bình, bình đẳng và hạnh phúc. Tư tưởng, giá trị nhân văn, đạo đức và nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức lôi cuốn, khích lệ các dân tộc bị đô hộ, đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do, công lý và tiến bộ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là đại sứ hòa bình và hữu nghị của nhân dân thế giới, là cầu nối “mang tình anh em của nhân dân ta đến nhân dân nước bạn và đưa tình anh em nước bạn chuyển lại cho đồng bào ta”.

Việt Nam, một đất nước liên tục trải qua các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, là quốc gia hơn ai hết hiểu thế nào là giá trị của hòa bình. Với truyền thống hòa hiếu, hữu nghị, người Việt luôn tìm cách gìn giữ hòa bình, tránh chiến tranh và chỉ buộc phải chấp nhận chiến tranh khi giới hạn cuối cùng là chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc bị xâm phạm. Tinh thần ấy không bao giờ ngừng tắt mà nó luôn có sức thôi thúc, lan tỏa trong đời sống con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần ấy trên hành trình đi tìm đường cứu nước và phát huy mạnh mẽ trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, vì tiến bộ và hòa bình của nhân loại.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc. Với một sự nhạy cảm đặc biệt, Nguyễn Tất Thành sang nước Pháp, đến tận châu Âu, Người đi để mở rộng tầm mắt, nhìn ra các chân trời, đã đi không biết qua bao nhiêu nơi, qua các biển lớn, các xứ sở. Người làm rất nhiều nghề, những nghề lao động chân tay lam lũ bị khinh rẻ, vừa làm vừa tự học không ngừng. Chính vì thế, Người đã nhìn thấy từ châu Á, châu Phi đến châu Âu, châu Mĩ, ở đâu con người cũng là một, ở đâu sự đói khổ, sự cùng khốn, sự nhục nhã của con người cũng là một, ở đâu cũng có những con người lao động bị bóc lột, bị lừa dối, bị chà đạp, bị giết chóc, nhất là những người nô lệ ở các dân tộc thuộc địa. Đối với Người, một người dân mất nước, bị nô lệ thì giá trị tinh thần lớn nhất là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó chính là sự đồng cảm đầu tiên của Người về các dân tộc thuộc địa, của nhân dân lao động trên toàn thế giới, để rồi hình thành nên tư tưởng độc lập cho dân tộc mình đồng thời là độc lập cho tất cả các dân tộc; giải phóng dân tộc để giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Hoà bình và phát triển là khát vọng cháy bỏng của mỗi người dân, là đích đến của nhân loại.

Trong suốt những năm đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi nhiều nước, kết bạn với nhiều người của các dân tộc trên thế giới, đã gặp gỡ hàng trăm nhân sỹ, danh nhân, tham gia các diễn đàn, lập hội, viết báo, viết sách, phản ánh về nỗi thống khổ của nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộc thuộc địa, tố cáo tội ác của thực dân, đế quốc. Người cho rằng ở đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính, ở đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau. Đi đến đâu, Người cũng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn bè quốc tế không chỉ là sự giản dị, khiêm tốn, giàu lòng vị tha, mà còn là trí tuệ uyên bác, tầm nhìn sâu rộng, lý tưởng và hoài bão cao đẹp “hiến dâng tất cả cho Tổ quốc, cho nhân dân”, cho một “thế giới đại đồng”. Bè bạn năm châu khâm phục và đánh giá cao về Người. Nhà báo Liên Xô: Ô-xip Man-den-xtan trong bài “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc” đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai…Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”. Văn hoá của tương lai mà Ô-xip Man-den-xtan nói đến chính là Văn hoá hoà bình Hồ Chí Minh. 56 quốc gia Người đã đến là minh chứng cho tinh thần quốc tế cao cả, là cầu nối cho tình hữu nghị và hòa bình khắp năm châu. Hình ảnh của Người được ngưỡng mộ, kính trọng, lan tỏa khắp thế giới: 35 tượng đài, 11 khu tưởng niệm được xây dựng; 20 con đường, đại lộ và nhiều trường học được đặt tên Người. Ở một số nước xuất hiện môn “Hồ Chí Minh học”. Nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, chuyên gia, sinh viên chọn Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu, nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật ra đời để ngợi ca về Người…Romesh Chandra, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới nói rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.


Trong sự nghiệp hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản đồ sộ về hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Ngay sau khi nước Việt Nam giành lại được độc lập, tự do, với cương vị là Chủ tịch nước, Người đã thay mặt nhân dân Việt Nam, chìa bàn tay hữu nghị, hòa bình với toàn thế giới: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai. Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam”. Đối với nước Pháp mặc dù là nước đã đặt ách thống trị tàn bạo lên dân tộc Việt Nam, nhưng đối với Người, việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp cuối cùng. Ngay cả khi bắt buộc phải tiến hành chiến tranh để bảo vệ đất nước, Người vẫn tìm mọi cách nhằm cứu vãn hòa bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ quân đội Pháp và những kiều dân Pháp ở Việt Nam, cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân các nước, vừa tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, vừa kêu gọi đàm phán hòa bình bởi “Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó, chúng tôi đều quý như nhau”. Khi sang thăm nước Pháp, tại khu di tích lịch sử ở Noóc-man-đi, chính tay Bác đã ném đi những trái mìn, bịt miệng khẩu đại bác với dụng ý nói lên ý chí và tinh thần quyết tâm giữ gìn hòa bình, kiên trì ngăn chặn chiến tranh. Đó cũng là thông điệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam gửi tới nhân dân Pháp và những người cầm quyền nước Pháp lúc đó, khẳng định tư tưởng yêu chuộng hòa bình củadân tộc Việt Nam. Cuộc đàm phán ở Pháp bế tắc, trong một cố gắng cuối cùng, đêm 14/9/1946 Bác ký với Pháp tạm ước chịu nhiều nhân nhượng từ phái ta để cứu vãn hòa bình. Trong cuốn hồi ký: “Chuyện một nền hòa bình bị bỏ lỡ”, ông Xanh-tơ-ni viết: “Quả thật đáng tiếc nước Pháp đã không đánh giá đúng tầm cỡ ông Hồ Chí Minh, không hiểu nổi vai trò của ông và sức mạnh ông có trong tay”. Nhà sử học Xô viết Cobilets viết: “Hồ Chí Minh nhà yêu nước vĩ đại Việt Nam đã chân thành giơ bàn tay hữu nghị cho nhà yêu nước vĩ đại Pháp Đờ-gôn, nhưng Đờ-gôn đã không nắm lấy bàn tay ấy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.

Năm 1950, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đang trên đà thắng lợi, phong trào hòa bình thế giới phát triển mạnh, Hội đồng hòa bình thế giới được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam nhằm góp phần vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình của Việt Nam và mở rộng quan hệ với phong trào hòa bình thế giới. Đây là một trong những tổ chức nhân dân đầu tiên của Việt Nam do đích thân Bác Hồ là Chủ tịch danh dự đầu tiên. Ủy ban Hòa bình Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc củng cố tinh thần đoàn kết của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân Việt Nam và kêu gọi những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời cũng đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, bảo vệ công lý, chống chiến tranh xâm lược.

Trước những biến động về tình hình quốc tế mới, đặc biệt là hành động hiếu chiến của đế quốc Mỹ cùng các âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn kiên định lập trường trước sau như một: “Về quan hệ quốc tế, chúng tôi luôn luôn trung thành với chính sách hòa bình và hợp tác giữa các nước trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình”. Xuất phát từ tư tưởng mong muốn hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố gắng bằng nhiều con đường, hy vọng làm thức tỉnh lương tri của những người trong bộ máy điều hành nước Mỹ. Người trực tiếp viết thư gửi các chính giới Mỹ, kêu gọi nhân dân Mỹ hãy cùng với nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam, và bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nhân dân Mỹ, những người cũng đang là nạn nhân đau khổ của cuộc chiến tranh này. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “nhân dân Việt Nam không bao giờ nhầm lẫn nhân dân Mỹ yêu chuộng công lý với những chính phủ Mỹ đã phạm nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam”. Giới cầm quyền Mỹ đã nhiều lần nhận được thông báo về thiện chí hòa bình của Hồ Chí Minh, nhưng họ đã đáp lại bằng việc tăng cường và mở rộng diện đánh phá miền Bắc, đưa thêm quân vào chiến trường miền Nam. Tiếng nói chính nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân Mỹ đồng tình và chính họ đã tạo nên những làn sóng đấu tranh liên tục chống chính quyền Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Trong bức thư chúc mừng nhân dân Mỹ nhân dịp đầu năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ sự quý trọng tình hữu nghị của nhân dân Việt Nam với nhân dân Mỹ; hoan nghênh và cảm ơn nhân dân Mỹ đã đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, dù đang lâm bệnh nặng, trong lá thư viết trả lời Tổng thống Mỹ R.Níchxơn ngày 25/8/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân chính trong độc lập và tự do thực sự”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hòa bình là lợi ích của tất cả các dân tộc, do đó phải đấu tranh cho hòa bình trên thế giới được bền vững, giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước nhà. Vì thế, trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Người luôn xây đắp tinh thần quốc tế trong sáng. Người đã dành những tình cảm thắm thiết với mọi dân tộc trên thế giới, luôn luôn ủng hộ những cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng bất cứ ở đâu, quan tâm chí tình tới bạn bè quốc tế, chăm sóc ân cần mọi số phận con người bằng những việc làm cảm động và thiết thực. Người là hiện thân của tinh thần “Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em”, hết lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng giềng, cống hiến xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Người khởi xướng và kết nối mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, ba nước trên bán đảo Đông Dương chung một chiến hào, đoàn kết, kiên cường đánh đuổi hai đế quốc Pháp và Mỹ. Đón đoàn cấp cao Lào thăm Việt Nam tháng 3/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em... Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”.Người đã dựa vào sự am tường của mình về văn hóa Trung Hoa, đã vận dụng kinh nghiệm ngoại giao của ông cha ta trong cách ứng xử với Trung Quốc, để vừa bày tỏ sự tôn trọng tới lãnh đạo Trung Quốc, vừa đồng thời khéo xử lý quan hệ Việt - Trung trong mối quan hệ với các nước lớn khác. Nhờ vậy mà Người đã tranh thủ được ở mức cao nhất sự ủng hộ tinh thần và vật chất to lớn của chính phủ và nhân dân Trung Quốc dành cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Trong thông điệp gửi cho nhân dân Ấn Độ, Người nhấn mạnh: “Nhân dân hai nước chúng ta đã có những quan hệ anh em từ lâu đời. Nền văn hóa và đạo Phật của Ấn Độ đã truyền sang Việt Nam từ thời cổ. Dưới ách thống trị của thực dân, quan hệ giữa hai nước chúng ta bị gián đoạn trong một thời kỳ. Nhưng tình hữu nghị cổ truyền luôn luôn gắn bó hai dân tộc chúng ta”. Người kêu gọi phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ, yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới ủng hộ sự nghiệp đấu tranh của dân tộc ta. Và cả loài người tiến bộ đứng về phía Việt Nam, kề vai, sát cánh bên Người, đoàn kết với nhân dân ta trên trận tuyến đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng nước nhà. Người là “biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” (UNESCO).

Trong trái tim nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ kiệt xuất, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, người đồng chí, người thầy kính yêu, người bạn thân thiết. Trong Điếu văn đọc tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Sầm Nưa ngày 5/9/1969, Cố Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào nói: “Đối với cách mạng Lào chúng ta, đồng chí Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo cho Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tại Lào trước đây, cũng như sau này cho Đảng Nhân dân Lào khi Đảng đã được thành lập. Đồng chí trực tiếp giúp cho chúng ta những ý kiến quan trọng về chiến lược, sách lược, về phương thức hoạt động. Nhờ đó mà trong tình thế vô cùng gay go, gian khổ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra sức vận động quần chúng, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Lào đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay mình, tuyên bố nền độc lập của Lào ngày 12/10/1945. Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tận tình cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta... Đồng chí Hồ Chí Minh đã chú ý hướng dẫn việc chuyển hướng trọng tâm hoạt động trong từng thời kỳ, việc xây dựng cơ sở nhân dân, phát động quần chúng nông dân, xây dựng các khu căn cứ kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, mở rộng mặt trận thống nhất, xây dựng Đảng Mác- Lênin chân chính, nhất là vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng và có năng lực công tác”.

Người đã “trở thành một bộ phận của huyền thoại khi còn sống” trong lòng nhân loại. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức Ấn Độ, chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại ấn tượng không phai trong lòng nhân dân Ấn Độ. Người đã chiếm trọn trái tim của người dân Ấn Độ ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, bởi sự hòa nhã, thân ái và khiêm nhường. Hàng nghìn người dân Ấn Độ đổ ra đường chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đoàn xe của Người đi qua và rất nhiều người đã khóc khi nhìn thấy Người. Thủ tướng Ấn Độ Neru từng nói: “Chúng ta được tiếp xúc với một người, người ấy là một phần lịch sử của châu Á”. Trong chuyến thăm nước Đức, vào khoảng 22h ngày 17/7/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dạo với vợ chồng Thủ tướng Đức Ôttô và Johana trên đường phố Berlin, khi người dân nhận ra và xúm lại, vây quanh, Bác đã bắt tay từng người rồi hỏi chuyện một đôi nam nữ trẻ tuổi bằng tiếng Đức: “Các cháu có biết không, sang đến đây Bác mới biết mình là người giàu nhất nước Đức này?”, Người giơ tay chỉ và nói: “Các cửa hàng lớn đều đề tên HO là của Bác! (HO tiếng Đức là viết tắt tên cửa hàng quốc doanh)”. Nhà thơ Đức Vili Xanbao đã viết: “Trong tầm nhìn của Bác, không những cho thấy Người là nhà Quốc tế đáng kính phục mà còn là nhà văn hóa lớn, giàu tình thương yêu nhân loại”.

Hòa bình và nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là phải gắn liền độc lập dân tộc với đoàn kết quốc tế; lấy tinh thần thiện chí, hòa bình để giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, trên cơ sở gắn lợi ích dân tộc với lợi ích các nước trong khu vực và lợi ích chung của nhân loại tiến bộ. Tư tưởng đó đang trở thành xu hướng phát triển và giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, xung đột giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới trong thời đại ngày nay. Cùng với quá trình tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, Việt Nam luôn kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Đó là sự kết hợp, kế thừa và phát huy những triết lý truyền thống ngoại giao của ông cha ta về độc lập, tự chủ, hòa hiếu, chính nghĩa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc… dưới ánh sáng mang tầm thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh./.

Phan Thủy

Theo khuditichkimlien.gov.vn



  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...