Thứ Hai, 26 tháng 8, 2024

Kỷ niệm 79 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2024) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024)

 

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NĂM 1945 - ĐỘNG LỰC KHƠI DẬY

KHÁT VỌNG CỐNG HIẾN BẢO VỆ TỔ QUỐC

CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY


Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 với 49 câu, 1.013 từ, là bản thiên cổ hùng văn, kết tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của cả dân tộc, chấm dứt thể chế quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là văn kiện quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.

Những tư tưởng bất hủ đã thể hiện đầy đủ trí tuệ, khí phách, văn hiến, nhân văn, ý chí và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vì thế hàm chứa giá trị lịch sử bền vững và giá trị hiện thực sâu sắc.

Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ tuyên bố với thế giới về nền độc lập của nước Việt Nam: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật, đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy, mà còn khẳng định ý chí sắt đá của dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập đó: Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Tinh thần, khí phách, khát vọng dân tộc thể hiện trong Bản Tuyên ngôn mãi mãi là kim chỉ nam cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đây là sự tiếp nối tinh thần độc lập dân tộc tiến lên xã hội chủ nghĩa, tiếp nối khát vọng giải phóng nước nhà đến xây dựng đất nước phát triển hùng cường, bền vững.

Lịch sử đã lùi xa 79 năm, nhưng ý nghĩa và giá trị của Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chưa bao giờ xưa cũ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, thanh niên Quân đội đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Với lý tưởng, hoài bão cao đẹp, các thế hệ thanh niên Quân đội đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, cống hiến tuổi trẻ, tâm huyết, sức lực, trí tuệ cho đất nước, dân tộc.

Trong giai đoạn cách mạng mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cơ sở để hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cường quốc năm châu. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế” [1]. Đồng thời, Đại hội XIII khẳng định rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam” [2], đòi hỏi thanh niên Quân đội phải thường xuyên rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khát vọng cống hiến, ý chí phấn đấu vươn lên, góp phần giúp Quân đội ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng các mâu thuẫn cơ bản của thời đại tiếp tục tồn tại và phát triển; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền, xung đột dân tộc, sắc tộc,... diễn ra với nhiều hình thức, quy mô, phức tạp, quyết liệt hơn cùng với sự xuất hiện của nhiều loại hình chiến tranh mới. Các yếu tố an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh,… tiếp tục diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn vẫn tiếp tục diễn ra quyết liệt; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn biến phức tạp. Đối với nước ta, sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực ngày càng được tăng cường, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới.

Trước những yêu cầu, đòi hỏi mới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [3]. Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ hơn lộ trình “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” [4], đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn quân và toàn dân ta. Do vậy, để phát huy giá trị của Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội hiện nay cần tiến hành đồng bộ những giải pháp cụ thể sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp đối với việc khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội.

Để thực hiện tốt giải pháp trên, các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết phải khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội.

Chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp cần có kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, hiệu quả các hoạt động khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội trong cơ quan, đơn vị mình; tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng tư tưởng, nhận thức cho thanh niên Quân đội có nhận thức đúng, đầy đủ và sâu sắc về khát vọng cống hiến và vai trò khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội. Phải làm cho thanh niên Quân đội xác định được mục tiêu, lý tưởng cách mạng; nhận thức sâu sắc tình hình nhiệm vụ của của quân đội, của từng đơn vị; nhận thức rõ đạo đức cách mạng, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, lối sống văn hoá; tinh thần cống hiến, vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời, cần phát huy hơn nữa vai trò của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị, cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc xây dựng kế hoạch, xác định chương trình, nội dung, thời gian và tổ chức các hoạt động khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội ở tất cả các cấp, bảo đảm đúng định hướng chính trị, sát với từng đối tượng, địa bàn, có chất lượng, hiệu quả thiết thực. Căn cứ nội dung định hướng, hướng dẫn của cơ quan cấp trên, cơ quan chính trị các cấp cần chủ động nghiên cứu, lựa chọn những nội dung cốt lõi, trọng tâm, những quan điểm hoặc vấn đề mới có liên quan trực tiếp đến khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội để đưa vào nội dung giáo dục chính trị thường xuyên tại các cơ quan, đơn vị.

Hai là, xác định đúng, thực hiện đồng bộ các nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội.

Để thực hiện tốt giải pháp trên cần tập trung xác định đúng, thực hiện đồng bộ các nội dung khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội. Đội ngũ cán bộ các cơ quan, đơn vị cần tích cực, chủ động cập nhật những vấn đề cụ thể, mang tính thời sự trong cuộc sống thường ngày, hướng vào những quan điểm, vấn đề mà xã hội đang quan tâm, định hướng tư tưởng và hành động đảm bảo tính thuyết phục, không máy móc, giáo điều, giải đáp đúng, trúng, có sức thuyết phục cho các đối tượng, góp phần giữ vững tình hình chính trị, tư tưởng trong đơn vị.

Nội dung khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội phải đảm bảo linh hoạt, chủ động, nhanh nhạy, kịp thời phản bác lại những tư tưởng, hành vi tiêu cực, tác động xấu đến thanh niên. Kết hợp tốt giữa xây và chống, không phê phán phủ định một chiều. Đổi mới nội dung khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội phải toàn diện cả về công tác tư tưởng, công tác tổ chức, chính sách và công tác quản lý; tích cực quán triệt, giáo dục về quan điểm của Đảng về thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy”; về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhiệm vụ của cách mạng, đất nước, quân đội; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,... từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mỗi đối tượng thanh niên Quân đội đóng quân trên từng địa bàn đều có những đặc điểm, tính chất và nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức Đảng, chỉ huy các cấp tổ chức sinh hoạt quán triệt những văn bản, chỉ thị, hướng dẫn, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội, đơn vị có liên quan đến về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, về khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên. Cán bộ quản lý đơn vị trực tiếp tuyên truyền, phổ biến những quy định, hướng dẫn đó đến thanh niên để họ biết, xác định tốt tư tưởng, có mục đích, động cơ phấn đấu rõ ràng. Thông qua các hình thức giao nhiệm vụ, tổ chức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, mẫu mực, tiêu biểu để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho thanh niên Quân đội về tầm quan trọng của việc khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc. Trong sinh hoạt của tổ chức đoàn, hội đồng quân nhân ở mỗi đơn vị cần đề cao tính định hướng chính trị, tính giáo dục, tính chiến đấu của nội dung sinh hoạt. Kịp thời đổi mới các hình thức sinh hoạt giáo dục học tập của các tổ chức cho phù hợp, nhằm tạo ra hứng thú, thái độ tích cực học tập, rèn luyện của mỗi chủ thể. Đề cao tính chiến đấu, đấu tranh phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt, nhất là các hình thức sinh hoạt phê bình và tự phê bình ở sinh hoạt đoàn, hội đồng quân nhân của đơn vị; phát huy ý thức, trách nhiệm và vai trò tự học, tự bồi dưỡng của mỗi cá nhân trong sinh hoạt. Đồng thời, thông qua tổ chức tốt các hình thức trao đổi, tọa đàm, diễn đàn, hội thảo khoa học, thảo luận, hội thi, hội thao, xây dựng, tôn vinh, lan tỏa, gương điển hình tiên tiến để khơi dậy khát vọng cống hiến bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên Quân đội hiện nay.

Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động của thanh niên Quân đội trong tự học tập, rèn luyện, tự nguyện cống hiến bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mỗi thanh niên Quân đội cần phải nhận thức đúng đắn, xác định rõ động cơ, thái độ và trách nhiệm cống hiến bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn là yếu tố bên trong thôi thúc tính tích cực, chủ động và tạo nên nhu cầu tự học tập, rèn luyện, tự nguyện cống hiến bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của thanh niên thường xuyên và nghiêm túc.

Do đó, mỗi thanh niên Quân đội cần phải tự quán triệt, tự học tập, nhận thức sâu sắc đúng đắn trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc; phải thấy rõ vinh dự và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; luôn ý thức rõ trách nhiệm trước Đảng, trước quân đội, trước đơn vị và trước đồng đội về tự học tập, rèn luyện và trách nhiệm cống hiến của mình, coi đây là công việc thường xuyên hàng ngày, hàng giờ, không thời vụ, hình thức, chiếu lệ.

Mỗi thanh niên Quân đội cần tích cực, chủ động tham gia hoạt động thực tiễn quân sự, thực tiễn của đơn vị, địa phương và các phong trào cách mạng của tuổi trẻ, của đất nước; coi đó là trách nhiệm của tuổi trẻ và là trách nhiệm đối với sự trưởng thành của chính bản thân mình. Tích cực tham gia mọi hoạt động của đơn vị, có tinh thần khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, có tâm thế vững vàng, nỗ lực cao trong học tập, phấn đấu, trong rèn luyện thực tiễn để nâng cao cả năng lực nhận thức và năng lực hành động.

Đồng thời, mỗi thanh niên Quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, không ngừng tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt; đồng thời coi tự học là nhu cầu, thói quen hằng ngày, là một tiêu chuẩn, một giá trị tự thân cần đạt được; không được bằng lòng, thoả mãn với kiến thức của bản thân, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu, học hỏi cấp trên, đồng chí, đồng đội, học trên thao trường, bãi tập, học trong đời sống sinh hoạt hằng ngày; phải chủ động xây dựng kế hoạch tự học, học tập suốt đời cho bản thân khoa học, hợp lý; nỗ lực, phấn đấu rèn luyện bền bỉ, thường xuyên, liên tục.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần, giá trị bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn đã trở thành sức mạnh, động lực to lớn khơi dậy ý chí quyết tâm, tinh thần và nghị lực, đạo đức và tài năng của thanh niên Quân đội, giúp họ nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; góp phần cùng toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trung tá NGUYỄN QUỐC DUY

Tài liệu tham khảo:

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 336.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr. 324.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.156.

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 48-49.

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM (19/8/1945 - 19/8/2024), 19 NĂM NGÀY HỘI TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC (19/8/2005 - 19/8/2024)

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CÔNG AN NHÂN DÂN

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà tư tưởng lỗi lạc, người thầy kính yêu của Đảng và dân tộc ta, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, luôn chăm lo xây dựng, giáo dục và rèn luyện Công an nhân dân trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt.

Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có lực lượng Công an nhân dân tư tưởng và những lời dạy quý báu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân đã trở thành di sản tinh thần thiêng liêng, là nền tảng lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân, góp phần quan trọng làm nên những chiến công to lớn, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Ngay từ khi chính quyền cách mạng mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ bản chất cách mạng của Công an nhân dân: “Công an nhân dân hoàn toàn khác Công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân... Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng, Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân”(1); Người nhấn mạnh: “Mỗi người công an phải là một chiến sĩ... Tôi mong rằng toàn thể Công an sẽ cố gắng thi đua để lập công trong cuộc thắng lợi chung”(2).

Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, về yêu cầu, nhiệm vụ công tác công an trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối với nhân dân, đối với Đảng, với cách mạng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của công an rất lớn, rất nặng nề”(3); “nhiệm vụ công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa... Đó là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ đồng thời cũng rất vẻ vang”(4).

Trong Bài nói tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 1 năm 1956, Người nhấn mạnh: “Nhân dân ta có hai lực lượng. Một là quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện. Còn Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”(5).

Về phương pháp, biện pháp công tác, mục tiêu bảo vệ và đối tượng đấu tranh của Công an nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Công an phải:

1. Nhận rõ nhiệm vụ của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân.

2. Để làm tròn nhiệm vụ thì phải luôn luôn đoàn kết nội bộ, nâng cao cảnh giác, chớ chủ quan, khinh địch, tự mãn.

3. Phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.

4. Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được”(6). Đồng thời, Người dặn dò cán bộ, chiến sĩ công an: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân”(7); “Bọn phản động không bao giờ muốn cho chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, công an phải luôn luôn cảnh giác, ngăn ngừa những hành động phá hoại của chúng để bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ sự nghiệp cách mạng”(8).

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, công tác công an phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm quần chúng của Đảng theo phương châm “lấy dân làm gốc”. Dù kẻ địch có âm mưu thâm độc đến đâu, nhưng nếu chúng ta giữ được lòng dân, dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, thì địch “ba đầu, sáu tay” cũng bị thất bại.

Trong Bài nói chuyện tại Trường Công an Trung ương trung cấp khóa II, Bác Hồ chỉ rõ: “Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có năm vạn cặp mắt, năm vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”(9).

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Để các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn mỗi cán bộ, chiến sĩ công an phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; đặc biệt phải làm để dân tin, dân phục, dân yêu, phải là những cán bộ dân vận giỏi nhất, cán bộ dân vận tốt nhất.

Trong Bài nói tại Hội nghị Cán bộ Công an, ngày 29 tháng 4 năm 1963, Người nhấn mạnh: “Phải ra sức phát động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ trị an, giáo dục quần chúng nâng cao tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần cảnh giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích cực phòng và chống gián điệp biệt kích. Muốn đạt kết quả đó thì công an phải hết lòng giúp đỡ nhân dân và dựa vào lực lượng hùng mạnh của nhân dân... Làm tốt những việc đó, thì chúng ta nhất định thắng được địch. Đảng và Chính phủ tin vào lòng tuyệt đối trung thành và ý chí kiên cường phấn đấu của các đồng chí. Toàn thể cán bộ và chiến sĩ công an phải cố gắng vượt mọi khó khăn, làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của công an cách mạng, xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân, của Đảng và Chính phủ”(10).

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, đồng thời với sự giúp đỡ của nhân dân, thì sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng Công an nhân dân với các cấp, các ngành, nhất là với Quân đội nhân dân, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng có ý nghĩa quyết định.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Phải đi đúng đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an mới thành công được. Phải đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các ngành thì công việc mới thắng lợi”(11); “Các cấp ủy đảng phải thật sự giúp đỡ và lãnh đạo chặt chẽ công an”(12).

Bảo vệ bí mật Nhà nước là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Trong bài “Phải giữ bí mật của Nhà nước” đăng trên Báo Nhân dân, số 700, ngày 1 tháng 2 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Những văn kiện bí mật của Nhà nước quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Cho nên giữ bí mật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt là nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể”(13).

Người nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ bí mật Nhà nước: “Vấn đề này, nhắc đi nhắc lại đã nhiều lần. Nhưng tiếc thay, chứng bệnh không biết giữ bí mật vẫn rất phổ thông, rất trầm trọng. Nhiều cán bộ, nhân viên, binh sĩ, nhân dân còn mắc bệnh ấy. Chúng ta phải luôn nhớ rằng: trong chiến tranh, giữ bí mật hay không là điều rất quan hệ đến sự thắng hay bại. Nếu địch biết tin tức của ta, nó sẽ tìm đánh vào chỗ yếu của ta, thì địch sẽ thắng. Nếu ta thấy rõ tin tức của địch, ta sẽ tìm đánh vào chỗ yếu của nó, thì ta sẽ thắng”(14).

Người chỉ rõ: “Tất cả các cơ quan, bộ đội, tất cả các đoàn thể phải phụ trách thiết thực huấn luyện cho binh sĩ, cán bộ và nhân dân điều lợi, điều hại và cách giữ bí mật. Mỗi người phải coi việc giữ bí mật là một nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, đối với Chính phủ”(15).

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt, chăm lo xây dựng, rèn luyện lực lượng Công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, vì nhân dân phục vụ, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Giữa bộn bề công việc cấp bách của Đảng, Chính phủ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra gay go, quyết liệt, trong Thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu XII về “Tư cách người Công an cách mệnh”, ngày 11/3/1948, Người chỉ rõ những phẩm chất đạo đức và tư cách người Công an cách mạng phải có, đó là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.

Đối với công việc, phải tận tụy.

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.

Nội dung Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân có ý nghĩa sâu sắc, toàn diện đối với quá trình công tác, chiến đấu, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an. Đó là những phẩm chất không thể thiếu, là nhân tố quyết định để lực lượng Công an hoàn thành xuất sắc yêu cầu, nhiệm vụ được giao: Có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức trong sáng; có ý chí cách mạng tiến công, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.

Trong Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, Người dành điều đầu tiên để căn dặn cán bộ, chiến sĩ công an: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đây là  phẩm chất đạo đức đầu tiên và quan trọng nhất mà mỗi cán bộ, chiến sĩ công an phải có, phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, thì mới có cơ sở để phấn đấu thực hiện những điều Bác Hồ dạy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thực hiện lời dạy của Bác chính là nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao sức mạnh chính trị, tư tưởng, năng lực thực thi nhiệm vụ trong mỗi con người nói chung, nhất là đối với cán bộ, chiến sĩ công an nói riêng, tích cực học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”.

Trong Bài nói tại lớp nghiên cứu khóa I và lớp bổ túc khóa VI Trường Công an Trung ương, ngày 25 tháng 12 năm 1958, Người nhấn mạnh: “Công an đánh địch bên ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó hơn. Vì vậy, phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang. Công tác phải đi sâu và thiết thực. Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân thì khuyết điểm mới có thể khắc phục được và ưu điểm mới có thể phát huy được”(16).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân là một chỉnh thể thống nhất, sâu sắc và toàn diện về yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng đấu tranh, phương châm hành động, biện pháp công tác, mục tiêu phấn đấu, cống hiến, tu dưỡng, rèn luyện, chuẩn mực đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ công an, đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Học tập và thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân đã trở thành phong trào thi đua rộng lớn, liên tục trong Công an nhân dân suốt 70 năm qua, luôn là nội dung trọng tâm công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, tư tưởng của lực lượng Công an nhân dân trong các giai đoạn cách mạng trước đây, cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế ngày nay.

Thực tiễn công tác công an đã chỉ ra rằng, ở đâu, khi nào, cán bộ, chiến sĩ công an quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc những lời dạy của Bác Hồ, thì ở đó, khi đó, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân được giữ vững, công an được nhân dân tin yêu, cấp ủy, chính quyền tin cậy, các cấp, các ngành đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, can thiệp lật đổ ở nước ta với quy mô ngày càng mở rộng, cường độ ngày càng quyết liệt, tính chất ngày càng nguy hiểm, thâm độc, tinh vi, xảo quyệt. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, có mặt nghiêm trọng hơn, gây bức xúc trong nhân dân. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân vẫn mang tính thời sự, còn nguyên vẹn giá trị và là bài học quý báu đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đối với lực lượng Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, ra sức học tập, làm theo lời dạy của Bác Hồ, hơn lúc nào hết, lực lượng Công an nhân dân nguyện tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang; nêu cao tinh thần đoàn kết, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, hun đúc bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, chấp hành nghiêm kỷ luật, tận tụy với công việc, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân; phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, với các bộ, ban, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội và dựa vào nhân dân, xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng đối ngoại của đất nước để mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 365.

2. Sđd, tr. 10.

3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.31.

4. Sđd, tr.447.

5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.118.

6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 119.

7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.365.

8. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.447.

9. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.366. 10. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 55.

11. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 280.

12. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 55.

13. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 121.

14. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 57.

15. Sđd, tr. 58, 59.

16. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 280.

Theo http://cand.com.vn

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2024

KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 – 19/8/2024)

 BÁC HỒ VỚI THẮNG LỢI VẺ VANG

CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

 (ĐCSVN) – Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.


Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thành công; với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Người cùng Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra trang sử vẻ vang chói lọi nhất cho dân tộc Việt Nam.

Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng đồng minh, ở Đông Dương, quân Nhật hoảng loạn, phong trào cách mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Bác Hồ đã khẳng định, lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu cũng phải giành cho được độc lập. Với tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị nhạy bén và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nắm chắc thời cơ cách mạng, kịp thời đề ra chủ trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa, kêu gọi sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Ngay đêm hôm đó, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa và phát đi “Quân lệnh số 1” kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 16/8/1945, Đại hội Đại biểu Quốc dân (tức Quốc dân Đại hội Tân Trào) tiến hành họp và phát động Tổng khởi nghĩa vũ trang, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, trong đó điểm đầu tiên là phải “giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”; Đại hội quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng; chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình. Thành công của Đại hội cho thấy sự sáng tạo độc đáo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa với lời hiệu triệu: "Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến; toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên".

Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mít tinh. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu Ủy ban quân sự Cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mít tinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ Khâm sai, trại lính bảo an và các cơ sở của Chính phủ bù nhìn.

Từ Hà Nội, làn sóng Cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám là sự kiện vĩ đại trong lịch sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối Cách mạng đúng đắn của Đảng ta: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn; Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn nhân dân, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”


































 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Mùa thu Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi, mở ra một trang sử mới, trang sử hào hùng nhất suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Phát huy những giá trị của Cách mạng tháng Tám và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách, chiến thắng dịch COVID-19, cũng như thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Trong những ngày mùa Thu lịch sử này, kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhân dân Việt Nam lại hướng về Quảng trường Ba Đình lịch sử để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhớ về Bác muôn vàn kính yêu, chúng ta càng tự hào về những năm tháng hào hùng của mùa Thu năm 1945. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám sẽ còn mãi tỏa sáng, là nguồn sức mạnh to lớn của thời đại mới, là động lực và chỉ dẫn quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”./.

Khắc Trường (tổng hợp tư liệu)


  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...