Thứ Hai, 22 tháng 7, 2024

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

 


NHÂN KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH - LIỆT SĨ

(27/7/1947 - 27/7/2024)

 Tình cảm của Bác Hồ đối với thương binh, liệt sĩ (TBLS) là biểu hiện cụ thể của truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”; đồng thời, là tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.

 Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn hằng năm có một ngày dành cho TBLS. Theo đề nghị của Hồ Chủ tịch, giữa tháng 6-1947, hội nghị các ngành của Trung ương và đại diện các địa phương họp tại Đại Từ, Thái Nguyên, đã nhất trí lấy ngày 27 tháng 7 hằng năm là Ngày Thương binh toàn quốc. Đến năm 1955, đổi thành Ngày TBLS. Ngày 27-7-1947 là Ngày TBLS đầu tiên của nước ta.

Bác nói: “Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái đối với thương binh và gia đình liệt sĩ”. Bác đau xót vô ngần mỗi khi biết tin một chiến sĩ hy sinh. Trong bức thư gửi Bác sĩ Vũ Đình Tụng (1-1947), Bác viết những lời thống thiết: “Tôi được báo cáo rằng, con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam... Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ”.

Mỗi dịp kỷ niệm Ngày TBLS, Bác Hồ lại gửi thư tới Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh (tiền thân của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ngày nay) nhắc nhở việc đẩy mạnh công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và nhiều lần Bác đã gửi tặng một tháng lương của mình cùng quần áo các đoàn thể tặng Bác để làm quà tặng cho các thương binh và gia đình liệt sĩ tiêu biểu.

Tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1960), Bác xúc động nói: “Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do.. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”.

Bác căn dặn: Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước “là một nghĩa vụ của nhân dân”, chứ không phải là “việc làm phúc”.

Trong “Thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh”, ngày 27-7-1954, Bác biểu dương và nhắc nhở các đoàn thể ở các xã: “Nhiều nơi đã hăng hái đón thương binh, bệnh binh về xã, giúp đỡ anh em làm ăn và đã chiếu cố chu đáo các gia đình liệt sĩ. Thế là rất tốt. Đó là một cách để tỏ lòng nhân dân biết ơn những chiến sĩ đã có công giữ nước, giữ làng. Song, việc giúp đỡ ấy cần phải thiết thực, cần có tổ chức và mọi người trong xã đều cần tùy theo khả năng mà tham gia”.

Ngày 17-7-1956, Bác gửi thư cho thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ; trong đó, Bác nhắc nhủ đồng bào: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”.

Khi viết bản “Di chúc” (phần bổ sung), Bác nêu rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước về công tác TBLS: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (...) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.

Bác Hồ hết lòng yêu thương, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với nước; nhưng Bác không quên nhắc nhở thương binh, gia đình liệt sĩ phải luôn luôn thể hiện những phẩm chất tốt đẹp sẵn có, để xứng đáng với  sự quan tâm và lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trong “Thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh nhân ngày Thương binh – Liệt sĩ, 27-7-1952”, Bác căn dặn anh em thương binh, bệnh binh: “ - Phải hòa mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân/ - Phải tránh tâm lý “công thần”, coi thường lao động, coi thường kỷ luật/ - Chớ bi quan, chán nản. Phải luôn luôn cố gắng/ Trước kia, anh em đã xung phong diệt giặc thì ngày nay anh em sẽ tùy điều kiện mà xung phong tăng gia sản xuất”.

Ngày TBLS năm 1954, Bác lại có “Thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh” nhắc nhở việc đẩy mạnh hơn nữa công tác TBLS và căn dặn: “Các thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ cần phải biết ơn sự săn sóc của đồng bào; cần phải cố gắng tăng gia sản xuất, tự lực cánh sinh, tùy theo khả năng mà tham gia các công tác trong xã, chớ nên yêu cầu quá đáng, ra vẻ “công thần”. Bác động viên các thương binh: “Tàn mà không phế”, phấn đấu trở thành những “Công dân kiểu mẫu”, động viên các gia đình TBLS phấn đấu để trở thành các “Gia đình cách mạng gương mẫu”!.

Tư tưởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác TBLS thể hiện lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của Người. Tư tưởng và tình cảm ấy đã trở thành các chủ trương, chính sách, các chỉ thị của Đảng, Nhà nước đối với TBLS và những người có công với nước. Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ thị số 68-CT/TƯ, ra ngày 15-7-1985 về “Tăng cường chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng”.

Hiện nay, cả nước có trên 9 triệu người đang hưởng chế độ ưu đãi (chiếm 10% dân số cả nước); trong đó hơn 4 triệu người hưởng chế độ trợ cấp ưu đãi kháng chiến, trên 2 triệu người hưởng chế độ thân nhân của người có công mất trước năm 1995. Nhà nước đã phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 46.770 bà mẹ liệt sĩ, tiếp tục truy tặng và phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho cán bộ, chiến sĩ có công lớn trong kháng chiến và kiến quốc.

Các tổ chức xã hội xây dựng hơn 343.000 nhà Tình nghĩa và hàng vạn sổ tiết kiệm trao tặng các thương binh và gia đình liệt sĩ. Nhiều gia đình thương binh và gia đình liệt sĩ đã trở thành những “Gia đình cách mạng gương mẫu”. Nhiều cựu chiến binh làm kinh tế giỏi. Lực lượng cựu chiến binh hùng hậu và đáng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân đang tiếp tục đóng góp công sức trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập quốc tế. Đấy là sức lan tỏa to lớn của tư tưởng, tình cảm của Bác Hồ đối với công tác TBLS.

Theo Báo Biên Phòng  


Thứ Hai, 8 tháng 7, 2024

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ mở lối, chỉ đường giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn là cơ sở, nền tảng để dân tộc ta, đất nước ta phát triển, trường tồn. Vì vậy, vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thấu hiểu cảnh nước mất, nhà tan, cả dân tộc bị dìm trong lầm than, nô lệ, ngày 05/ 6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thay vì ngồi chờ ngoại viện như các vị tiền bối. Và đích đến đầu tiên của Người là mẫu quốc để “... xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về để giúp đồng bào chúng ta”1.

Với hành trình đó, đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, lấy tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi “Bản yêu sách 8 điểm” tới Hội nghị Versailles, đòi những quyền dân tộc tự quyết, nhưng không được chấp nhận. Người hiểu rằng: “... muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”2. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhiều nơi, nghiên cứu, tìm hiểu nhiều trào lưu, nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, như: cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),... và Người phát hiện đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”, chỉ phục vụ lợi ích cho thiểu số người giàu, còn giai cấp công nhân và các giai tầng khác vẫn sống trong cảnh nghèo khổ.

Sau gần 10 năm tìm kiếm, khảo nghiệm, tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin và nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”3. Điều này làm chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đây lý luận cách mạng, khoa học - con đường cứu nước đúng đắn, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để nhất.

Với trải nghiệm thực tế và tư duy độc lập, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc luôn nuôi dưỡng ý chí đấu tranh và phát triển đất nước theo con đường mới - con đường xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1921 - 1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, bắt đầu một thời kỳ hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Xô-viết - quê hương của V.I.Lênin vĩ đại. Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên - tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản; ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, đồng thời mở các lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài viết của Người được tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh có giá trị lý luận sâu sắc, đem đến cho dân tộc ta con đường cách mạng đúng đắn, đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi chuẩn bị cẩn trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta.

Sau 30 năm bôn ba trở về nước, tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng), quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải phóng dân tộc: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hưởng ứng Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, tháng Tám năm 1945 nhân dân ta đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”4.

Kế thừa, vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Đảng ta luôn quan tâm nghiên cứu, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, vận dụng sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng nước ta cũng như trong từng giai đoạn lịch sử, được thể hiện trên một số vấn đề cốt lõi.

Thứ nhất, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo cách mạng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Khi Đảng ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định rõ mục tiêu: “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”5 để đi tới xã hội cộng sản. Với tư tưởng xuyên suốt là độc lập dân tộc, trong giai đoạn 1939 - 1945, các hội nghị Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết. Từ đó đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cách mạng Tháng Tám bằng tinh thần, ý chí “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định bảo vệ vững chắc nền độc lập mới giành được, tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu trực tiếp, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ tối cao, huy động mọi giai cấp, tầng lớp để thực hiện với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,... bảo đảm chi viện cho chiến trường miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đất nước hoàn toàn được độc lập, thống nhất. Từ năm 1975 đến nay, nhiệm vụ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong việc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986, Đảng ta đổi mới tư duy, từng bước xác định đúng mô hình đặc trưng của chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6/1991) và 8 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển (2011). Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;...”6. Như vậy, sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện ngay trong đường lối lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực sau gần 40 năm đổi mới đất nước. Điều đó khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thấm nhuần sâu sắc giá trị của lý luận cách mạng, khoa học, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, đẩy mạnh, xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị, ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung, bao gồm toàn bộ các vấn đề “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tại các nhiệm kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”7. Đồng thời, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Những quy định của Đảng được thực hiện quyết liệt từ Trung ương đến các địa phương với quan điểm kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng8. Có thể khẳng định rằng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong công tác quốc phòng, an ninh. Quán triệt sâu sắc tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, làm cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”9. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện bằng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; luôn kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, thực hiện “bốn không”, được cụ thể hóa thông qua hệ thống các văn bản, như: Luật Quốc phòng, Sách Trắng quốc phòng Việt Nam 2019, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v. Hoạt động đối ngoại quốc phòng được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng với tất cả các nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc./.

DƯƠNG MINH HUỆ,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân)

 

1 - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng – Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 21.

2 - Trần Dân Tiên – Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn học, H. 1989, tr. 30.

3 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 562.

4 - Sđd, Tập 15, tr. 630.

5 - Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 2.

6 - Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 109.

7 - Sđd, tr. 180.

8 - https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/ky-luat-602-dang-vien-thuc-hien-luan-chuyen-nhan-su-da-duoc-uy-ban-kiem-tra-trung-uong-xem-xet-119240412145726841.htm

9 - Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập1, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 156.

 

 

 

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI VIỆT NAM NGÀY CÀNG TƯƠI ĐẸP, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC

 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI VIỆT NAM

NGÀY CÀNG TƯƠI ĐẸP, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC

- NHỮNG CHỈ DẪN QUAN TRỌNG CHO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng và cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường, người bạn thân thiết của các dân tộc bị áp bức trên thế giới; Người cũng là vị “kiến trúc sư vĩ đại” của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc mà đất nước ta đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện. Những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người để lại trong công cuộc xây dựng xã hội mới vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được vận dụng phù hợp, khoa học vào thực tiễn đất nước hôm nay và mai sau.

 


Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng xã hội tốt đẹp, tiến bộ, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam

Thứ nhất, là Người đầu tiên tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn mô hình xã hội phù hợp, tốt đẹp cho đất nước.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đất nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, nhất là về lựa chọn mô hình xây dựng xã hội mới. Mô hình xã hội phong kiến (mà hiện thân là triều đình nhà Nguyễn) hay xã hội tư sản (mô hình xã hội do chính quyền thuộc địa thực dân Pháp tạo dựng) đều chứa đầy mâu thuẫn, hạn chế, bất công nên không phù hợp với thực tiễn lịch sử, không được nhân dân chấp nhận. Trong hoàn cảnh ấy, ở nước ta chưa có ai, tổ chức hay lực lượng nào đủ khả năng tìm kiếm, lựa chọn đường lối cứu nước đúng đắn và một mô hình xã hội tốt đẹp, phù hợp.

Mặc dù các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, nhưng có sự khác biệt cơ bản về đường lối cách mạng, phương pháp tiến hành, lập trường giai cấp (đặc biệt là quan điểm về một mô hình xã hội mới sẽ được xây dựng ),... Trong đó, các sĩ phu yêu nước chủ trương phát động phong trào Cần Vương (giai đoạn 1885 - 1896), sau là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (giai đoạn 1884 - 1913) của vị anh hùng Hoàng Hoa Thám chống thực dân Pháp; tuy nhiên, tất cả bị đàn áp dã man và dẫn đến kết cục thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là bởi các vị tiền bối trên mang trong mình ý thức hệ của giai cấp phong kiến đã lạc hậu, lỗi thời, mong muốn khôi phục xã hội phong kiến (kiểu xã hội đã hết vai trò trong tiến trình lịch sử dân tộc) nên không được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân. Trong khi đó, nhiều phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư tưởng tư sản, như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,... của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như Phan Bội Châu (muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới theo mô hình xã hội nước Nhật lúc bấy giờ); Phan Châu Trinh (chủ trương dựa vào Pháp để nâng cao dân trí, dân quyền) phát triển rộng khắp, nhưng cuối cùng cũng lâm vào bế tắc và thất bại. Thực tế, tư tưởng xây dựng mô hình xã hội kiểu tư sản theo các phong trào trên còn thiếu thực tế và không đáp ứng được yêu cầu hiện thực xã hội thời bấy giờ.

Đứng trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại), một con người ưu tú với bản lĩnh quyết đoán và tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử; có trí tuệ siêu việt, sự nhạy cảm chính trị sâu sắc, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,... đã tìm ra con đường, hướng đi đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Kể từ thời điểm bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911) đến khi xác định được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tiếp nhận thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực tìm kiếm và lựa chọn mô hình đúng đắn về một xã hội mới, tốt đẹp cho dân tộc; thực tiễn hoạt động cách mạng ở trong nước và quốc tế đã giúp Người hiểu rõ sự lỗi thời, lạc hậu của xã hội phong kiến và mặt xấu xa, tàn bạo, bất công của xã hội tư sản ở cả chính quốc lẫn thuộc địa.  Trên cơ sở phân tích, đối chiếu các kiểu xã hội trong dòng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử nhân loại, Người cho rằng tính chất phiến diện, nửa vời, không triệt để của xã hội tư sản khiến ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa và sẽ làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai, rằng “chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được”(1).

Khác hẳn với xã hội tư sản là xã hội Xô-viết, tuy lúc bấy giờ còn non trẻ, nhưng đã sớm bộc lộ sức sống và tính ưu việt, mục tiêu phục vụ đều hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, khi mà “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do”(2). Như vậy, từ con đường cách mạng vô sản, hướng cách mạng giải phóng dân tộc theo những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời được tận mắt chứng kiến, nhìn nhận thực tiễn sinh động về mô hình xã hội Xô-viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình xã hội Xô-viết làm nền tảng để xây dựng đất nước ta. Người chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định về mục đích, nguyên tắc của mô hình xã hội mới, nhưng về hình thức, bước đi và cách làm cụ thể khi vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người lại có sự độc lập, sáng tạo và các bước phát triển mới, hoàn toàn không giáo điều, bảo thủ, rập khuôn, máy móc. Có thể nói, thực tiễn đã chứng minh, quyết định của Người về con đường cách mạng của dân tộc là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp với quy luật khách quan, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của thực tiễn đất nước cũng như nguyện vọng, lợi ích toàn thể dân tộc.

Thứ hai, khẳng định tính tất yếu đối với sứ mệnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam; đồng thời, chuẩn bị những tiền đề cốt yếu, nền tảng tư tưởng quan trọng để củng cố, hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp.

Năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo - tác phẩm có tác động mạnh mẽ, khiến Người cảm động, sáng tỏ niềm tin về một con đường giải phóng dân tộc đầy hy vọng mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua, đồng thời định hình rõ mô hình về một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Theo đó, Người khẳng định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4), bởi vì trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”(5). Trên cơ sở lý luận được tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết khoa học, cách mạng nhất của thời đại và từ thực tiễn khảo nghiệm của bản thân, Người dồn tâm huyết để chuẩn bị toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp.

Theo đó, đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu, phân tích và khẳng định tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - mô hình lý tưởng về một xã hội phù hợp với đất nước. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, ngay trong Chánh cương vắn tắt (năm 1930), Người xác định nhiệm vụ “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(6); sau khi nước nhà giành được độc lập, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(7), rằng “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(8).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước phát triển phồn vinh, bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(9). Bên cạnh việc khẳng định tính tất yếu trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, Người còn dày công phân tích, phác thảo đường hướng lớn về nội dung, động lực, con đường, bước đi, phương thức và biện pháp,... để xây dựng xã hội tốt đẹp ấy. Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới được Người khái quát hết sức giản dị, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, như chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, phong tục, tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...

Thứ ba, xác định, vạch rõ chủ trương, nguyên tắc xuyên suốt, hướng đi lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Nội dung đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dù được diễn đạt với ngôn từ, nội hàm khái niệm khác nhau,... song về bản chất, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với điều kiện đất nước. Đó là một xã hội hiện thực do con người, vì con người, giá trị con người được giải phóng triệt để; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ, một xã hội đạt đến trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất mà nhân loại nói chung, dân tộc và nhân dân Việt Nam nói riêng hằng mong ước. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”(10).

Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(11). Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, theo Người, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải xác định đúng, trúng phương thức, bước đi cùng với quyết tâm cao và những biện pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và với đặc điểm, xu thế của thời đại. Người chỉ rõ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên động lực và phương cách cơ bản, lâu dài, quyết định nhất là huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân, cụ thể:

Trên lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề then chốt, đồng thời cần chú trọng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối và quản lý kinh tế phù hợp; nền kinh tế đất nước ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(12). Song, Người nhấn mạnh, một xã hội tốt đẹp không thuần túy chạy theo lợi ích kinh tế, trái lại, phát triển kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Đó chính là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị đích thực của xã hội mới tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện, rằng “xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”(13).

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền - một Đảng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(14). Bên cạnh đó, phải xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ triệt để.

Trên lĩnh vực văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem yếu tố văn hóa là mục tiêu cơ bản và động lực của một xã hội tốt đẹp, có sự hiện diện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội. Cũng theo Người, mục tiêu cơ bản và trọng tâm của văn hóa phải là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó bao gồm các phẩm chất “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài và nền tảng đạo đức luôn được coi là gốc rễ. Sức hấp dẫn của một xã hội tốt đẹp hay của chủ nghĩa xã hội không phải chỉ ở mức sống vật chất cao, mà cốt lõi là ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm chất đạo đức của những con người sinh sống trong xã hội ấy.

Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không phải là ước vọng, giấc mơ, ý tưởng hay là lời hiệu triệu thuần túy. Xã hội đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa không chỉ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, những luận chứng, luận cứ đầy đủ, rõ ràng, mà còn bằng sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu toàn thông qua việc xác định rõ những bước đi, lộ trình, cách thức, biện pháp hết sức cụ thể, khoa học, hiệu quả và phù hợp với đất nước. Có thể nói, Người chính là “vị kiến trúc sư vĩ đại” đã kiến tạo nền tảng cơ bản, điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của một xã hội tốt đẹp ở nước ta, đồng thời đặt nền móng cho việc củng cố, hoàn thiện xã hội ấy.

Những chỉ dẫn cho giai đoạn hiện nay

Kể từ khi ra đời đến quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ cũng như trong từng chặng đường xây dựng đất nước, đồng thời dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử(15). Thực tế, sau gần 40 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(16), đây là bằng chứng sinh động và đầy sức thiết phục về nhận thức và sự vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Thực tiễn phát triển đất nước giai đoạn hiện nay đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới, vô cùng phong phú, đồng thời cũng hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường; là cơ sở để tư duy, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh từ thực tế,... trong công cuộc hoàn thiện xã hội tốt đẹp ở Việt Nam hiện nay. Thời gian tới, để tiếp tục vận dụng hiệu quả, phù hợp những giá trị mà Người để lại, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta(17). Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững, tạo lập nền tảng vật chất quan trọng để xây dựng xã hội tốt đẹp, vì lợi ích của nhân dân. Chú trọng đúng mức việc ứng dụng thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển đất nước; đồng thời, khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức và cá nhân.

Thứ hai, tập trung thực hiện hiệu quả, thiết thực các chính sách xã hội, hướng tới vì lợi ích của toàn thể dân tộc; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; đặc biệt, sự phát triển về kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”(18). Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm quyền con người và “an ninh con người” gắn với xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt, hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(19).

Thứ ba, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thắng lợi công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Bởi lẽ, thành công hay thất bại trong công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp “phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(20) . Theo đó, cần xây dựng và thực thi phong cách lãnh đạo, quản lý vừa khoa học, sâu sát, sáng tạo, vừa mang tính nhân văn cao cả. Mặt khác, thực hành triệt để tự phê bình và phê bình; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và tương lai về một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Đặc biệt, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ quan điểm sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng các hoạt động đối ngoại. Chú trọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có đầy đủ yếu tố dân tộc, khoa học và đại chúng; đồng thời, cần tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng và phát triển một cách phù hợp, sáng tạo với thực tiễn đất nước. Mặt khác, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhằm mở rộng hợp tác để phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế./.

--------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 292

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 652

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 161

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 294

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,  t. 3, tr. 1

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,  t. 15, tr. 392

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 401

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 251

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XII

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 91 - 92

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 445

(13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 432, 271

(15) Xem: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)

(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25

(17) Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết 44-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”; Nghị quyết 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”

(18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 9

(19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27

(20) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 35 - 36.

 

PGS, TS NGUYỄN ĐÌNH BẮC

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

 

  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...