Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 – 19/8/2023) VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (02/9/1945 – 02/9/2023)

 

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – NHỮNG GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN

 




 Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một chính thể dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt chế độ phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người chủ một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với quốc dân và thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy[1]. Tuyên bố đó đã thể hiện ý chí và khí phách của dân tộc Việt Nam “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là lời hịch truyền gửi đến muôn đời con cháu mai sau với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

 


- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo ngay giữa lòng Hà Nội, tại số nhà 48 phố Hàng Ngang của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô. Văn kiện quan trọng này được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi, lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng, các thành viên Chính phủ lâm thời, trong quần chúng nhân dân và ý kiến tham khảo của A. Patti - đại diện cho quân Đồng minh.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP có 1.120 từ, được sắp xếp trong 49 câu. Đây là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý vững chắc, khẳng định chủ quyền quốc gia của một dân tộc và giá trị về quyền con người của người dân một nước độc lập.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc; thể hiện trí tuệ sắc sảo, tư duy lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học, độc đáo và thiên tài của Người.

- Trong phần đầu của bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viện dẫn hai bản Tuyên ngôn của hai quốc gia lớn, văn minh hàng đầu thế giới là bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của Mỹ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” năm 1791 của Cách mạng Pháp. “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[2]; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi[3].

Với lập luận này, Người đi đến khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do[4] và “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được[5]. Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc. Và vì thế, mỗi người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam đều có những quyền chính đáng ấy; không ai có thể tước đoạt được; và nếu bị tước đoạt, cả dân tộc sẽ kiên cường, đoàn kết, kiên trì chiến đấu để giành lại và quyết tâm bảo vệ.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất, tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do mà còn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa, các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Vì thế, TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP không chỉ gắn liền với Hồ Chí Minh mà còn mở ra thời đại Hồ Chí Minh lịch sử gắn liền với hành trình nhân dân Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP khẳng định rõ vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do; thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.

- Trong TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa".

"Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu... Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy... Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng...”[1]

- Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP về quyền độc lập, tự do tất yếu của dân tộc Việt Nam là đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp và ý đồ can thiệp của các nước đế quốc đối với Việt Nam, khẳng định trước công luận: Mọi hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền của nước Việt Nam độc lập là đều vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược với xu hướng phát triển của nhân loại tiến bộ. Qua TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh giành tự do độc lập của dân tộc Việt Nam là chính nghĩa. Một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít, dân tộc đó phải được tự do, độc lập và sẽ bằng mọi giá để giữ vững nền độc lập của mình.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP minh chứng cho một sách lược mềm dẻo, linh hoạt về đối ngoại, tinh thần nhân văn cao cả, tính hòa hiếu của một dân tộc “muốn là bạn với các nước”.

- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP là cột mốc đánh dấu lịch sử dân tộc Việt Nam đã bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP về quyền con người, quyền dân tộc, khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do vẫn trường tồn cùng lịch sử, là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM

 

Thứ Hai, 21 tháng 8, 2023

KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 – 19/8/2023) VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (02/9/1945 – 02/9/2023)

 

BÀI HỌC DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN

TỪ QUỐC KHÁNH 2-9

 

Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, nghệ thuật dĩ bất biến, ứng vạn biến của những ngày Quốc khánh càng cần được phát huy.

Để giành và giữ nền độc lập non trẻ những năm 1945 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ứng dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn biến. GS – TS Võ Văn Sen, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử TP.HCM đã chia sẻ về giá trị của bài học này cho hôm nay và mai sau:

Dĩ bất biến, ứng vạn biến là vận dụng phép biện chứng vào xử lý các vấn đề. Dĩ bất biến là xác định và đứng trên nguyên tắc. Ứng vạn biến là trên cơ sở nguyên tắc phải có những ứng xử linh hoạt. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, điều quan trọng nhất là giành chính quyền. Từ đó xác định đâu là kẻ địch chủ yếu trước mắt. Khi Nhật mới vào Đông Dương năm 1940, liên minh với Pháp thì kẻ địch của Việt Minh là cả phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nhưng sau khi Nhật đảo chính Pháp vào 9-3-1945 thì cách mạng tập trung đấu tranh với phát xít Nhật, thậm chí giúp đỡ một số người Pháp bỏ trốn.

Sau cách mạng tháng Tám đến tháng 12-1946, tình hình vô cùng đặc biệt. Đất nước ta phải cùng một lúc chống nhiều kẻ địch: Anh, Pháp, Mỹ, Tưởng Giới Thạch. Tưởng vào phía bắc, đi sau Tưởng là sự ủng hộ của Mỹ. Phía nam là thực dân Pháp và thực dân Anh ủng hộ thực dân Pháp.

Dĩ bất biến là làm sao giữ được độc lập dân tộc. Điều này đòi hỏi phải hết sức quyền biến. Ngày 6-3-1946, chúng ta hòa với Tưởng ở phía bắc, chống Pháp ở phía nam. Trong bối cảnh lực lượng cách mạng còn yếu, nếu cùng lúc chống nhiều kẻ thù thì sẽ thất bại, đây là ứng xử hợp lý. Đáng nói, mặc dù quân Tưởng đang xâm phạm chủ quyền đất nước nhưng chúng ta chấp nhận cung cấp lương thực. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa chấp nhận đặc cách cho phía Tưởng một số ghế bộ trưởng và 70 ghế trong Quốc hội.

Trước khi sang Pháp để đàm phán năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng đảm đương công việc theo nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn biến. Người cũng thực hiện nguyên tắc trên khi ở Pháp. Thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh dĩ bất biến với nguyên tắc độc lập dân tộc, kéo dài thời gian hòa bình để xoay chuyển với tình thế phức tạp. Trước sự căng thẳng trong đàm phán, Người ký Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt với nội dung Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa  một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp. Đây là một ứng xử linh hoạt. Thoạt nhìn, nội dung này có vẻ nhượng bộ Pháp nhưng về bản chất, Việt Nam vẫn giữ được độc lập, cách nói không quá quan trọng. Tiếp đến là hội nghị đàm phán Pháp-Việt được tổ chức ở lâu đài Fontainebleau và tạm ước Việt - Pháp (14-9-1946). Đây là những bước đi của Bác nhằm kéo dài thời gian hòa bình để Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa chuẩn bị lực lượng, cơ sở kháng chiến.

Ôn cố tri tân, nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn biến vẫn luôn có giá trị với tình hình hiện nay. Thế giới đang có sự đan xen, chồng chéo về mối quan hệ, đặc biệt giữa các nước lớn. Nổi cộm hiện nay là mâu thuẫn giữa Mỹ - châu Âu và Nga với biểu hiện cụ thể là xung đột tại Ukraine.

Trong tình thế hiện nay, điều bất biến của chúng ta vẫn là lợi ích dân tộc, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên nguyên tắc “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Một biểu hiện cho thấy việc ứng dụng tư tưởng dĩ bất biến, ứng vạn biến trong tình hình hiện nay là chính sách “4 không” đối với quốc phòng: không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Với chính sách này, chúng ta tránh được nguy cơ xung đột với nước khác khi lợi ích quốc gia chưa bị xâm phạm. Nhờ vậy, chúng ta có thể tranh thủ được hòa bình để phát triển kinh tế.

Đối với đất nước ta, vấn đề lớn nhất cần giải quyết bây giờ là phải trở nên giàu mạnh. Sau nhiều nỗ lực, từ một nước nghèo, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình và đang đứng trước cơ hội rất lớn trở thành giàu mạnh. Muốn thế, chúng ta phải ứng vạn biến trước tình hình thế giới nhiều biến động và dĩ bất biến là giữ cho được hòa bình.

Tình hình trong, ngoài nước đã khác xa thời điểm mới giành độc lập nhưng vẫn tương đồng về bản chất trong nhiều vấn đề. Chúng ta hãy tiếp tục phát huy những gì đã đạt được, kiên định chiến lược ngoại giao, quốc phòng, kinh tế… hiện nay vì đó là nền tảng được dựng xây qua nhiều thế hệ và gặt hái kết quả khả quan.

Chúng ta hãy tiếp tục kiên định với con đường xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rất lớn đòi hỏi vừa có sự kế thừa, tổng hợp thực tiễn, vừa có sự sáng tạo liên tục. Phấn đấu trở thành nước phát triển là mục tiêu theo tiêu chí chung của thế giới. Còn với định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần chú trọng hơn các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, hạn chế những hệ lụy của khoảng cách giàu nghèo, bảo vệ môi trường…

Đây cũng là những cơ sở dĩ bất biến để ứng vạn biến trong mọi tình thế. Dù kinh tế phát triển đến đâu cũng vì mục tiêu hạnh phúc của nhân dân, công bằng xã hội. Dù lợi ích kinh tế lớn thế nào cũng không đánh đổi môi trường, cân bằng sinh thái.

So với các quốc gia có cùng trình độ phát triển, nước ta có những dấu ấn về an sinh xã hội như xóa đói giảm nghèo, phòng chống dịch bệnh… Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ trước thế giới về bảo vệ môi trường. Những nỗ lực này cần được tiếp tục phát huy khi nước ta từng bước có trình độ phát triển cao hơn nữa.

Khôi Nguyên Thảo (Ghi lại lời của GS.TS Võ Văn Sen)

Box: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói đất nước ta có trường phái ngoại giao riêng biệt, đặc sắc và độc đáo, đó là trường phái ngoại giao cây tre. Cây tre Việt Nam có gốc vững chắc, cành uyển chuyển, mềm dẻo nhưng rất kiên cường, không có cơn gió nào quật ngã được. Đây là trường phái ngoại giao thấm từ tâm hồn, cốt cách, khí phách của Việt Nam: mềm mại, khôn khéo nhưng kiên cường; linh hoạt, sáng tạo nhưng kiên định, can trường.

Trường phái ngoại giao này cũng là biểu hiện của tư tưởng dĩ bất biến, ứng vạn biến.  

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2023

KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 – 19/8/2023) VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (02/9/1945 – 02/9/2023)


BÁC HỒ VỚI THẮNG LỢI VẺ VANG

CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thành công; với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Người cùng Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra trang sử vẻ vang chói lọi nhất cho dân tộc Việt Nam.

Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng đồng minh, ở Đông Dương, quân Nhật hoảng loạn, phong trào cách mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Bác Hồ đã khẳng định, lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu cũng phải giành cho được độc lập. Với tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị nhạy bén và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nắm chắc thời cơ cách mạng, kịp thời đề ra chủ trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa, kêu gọi sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Ngay đêm hôm đó, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa và phát đi “Quân lệnh số 1” kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 16/8/1945, Đại hội Đại biểu Quốc dân (tức Quốc dân Đại hội Tân Trào) tiến hành họp và phát động Tổng khởi nghĩa vũ trang, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, trong đó điểm đầu tiên là phải “giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”; Đại hội quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng; chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình. Thành công của Đại hội cho thấy sự sáng tạo độc đáo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa với lời hiệu triệu: "Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến; toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên".


 Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mít tinh. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu Ủy ban quân sự Cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mít tinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ Khâm sai, trại lính bảo an và các cơ sở của Chính phủ bù nhìn.

 


Từ Hà Nội, làn sóng Cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám là sự kiện vĩ đại trong lịch sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối Cách mạng đúng đắn của Đảng ta: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn; Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn nhân dân, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”


Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Mùa thu Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi, mở ra một trang sử mới, trang sử hào hùng nhất suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Phát huy những giá trị của Cách mạng tháng Tám và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách, chiến thắng dịch COVID-19, cũng như thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Trong những ngày mùa Thu lịch sử này, kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhân dân Việt Nam lại hướng về Quảng trường Ba Đình lịch sử để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhớ về Bác muôn vàn kính yêu, chúng ta càng tự hào về những năm tháng hào hùng của mùa Thu năm 1945. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám sẽ còn mãi tỏa sáng, là nguồn sức mạnh to lớn của thời đại mới, là động lực và chỉ dẫn quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”./.

Khắc Trường

Thứ Hai, 7 tháng 8, 2023

KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM (19/8/1945 – 19/8/2023) VÀ 18 NĂM NGÀY HỘI TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC (19/8/2005 – 19/8/2023)

 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG AN NHÂN DÂN

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà tư tưởng lỗi lạc, người thầy kính yêu của Đảng và dân tộc ta, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, luôn chăm lo xây dựng, giáo dục và rèn luyện Công an nhân dân trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt.

Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có lực lượng Công an nhân dân tư tưởng và những lời dạy quý báu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân đã trở thành di sản tinh thần thiêng liêng, là nền tảng lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân, góp phần quan trọng làm nên những chiến công to lớn, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Ngay từ khi chính quyền cách mạng mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ bản chất cách mạng của Công an nhân dân: “Công an nhân dân hoàn toàn khác Công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân... Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng, Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân” (1); Người nhấn mạnh: “Mỗi người công an phải là một chiến sĩ... Tôi mong rằng toàn thể Công an sẽ cố gắng thi đua để lập công trong cuộc thắng lợi chung”(2).

Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, về yêu cầu, nhiệm vụ công tác công an trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối với nhân dân, đối với Đảng, với cách mạng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của công an rất lớn, rất nặng nề”(3); “nhiệm vụ công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa... Đó là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ đồng thời cũng rất vẻ vang”(4).

Trong Bài nói tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 1 năm 1956, Người nhấn mạnh: “Nhân dân ta có hai lực lượng. Một là quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện. Còn Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”(5).

Về phương pháp, biện pháp công tác, mục tiêu bảo vệ và đối tượng đấu tranh của Công an nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Công an phải:

1. Nhận rõ nhiệm vụ của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân.

2. Để làm tròn nhiệm vụ thì phải luôn luôn đoàn kết nội bộ, nâng cao cảnh giác, chớ chủ quan, khinh địch, tự mãn.

3. Phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.

4. Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được”(6). Đồng thời, Người dặn dò cán bộ, chiến sĩ công an: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân”(7); “Bọn phản động không bao giờ muốn cho chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, công an phải luôn luôn cảnh giác, ngăn ngừa những hành động phá hoại của chúng để bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ sự nghiệp cách mạng”(8).

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, công tác công an phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm quần chúng của Đảng theo phương châm “lấy dân làm gốc”. Dù kẻ địch có âm mưu thâm độc đến đâu, nhưng nếu chúng ta giữ được lòng dân, dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, thì địch “ba đầu, sáu tay” cũng bị thất bại.

Trong Bài nói chuyện tại Trường Công an Trung ương trung cấp khóa II, Bác Hồ chỉ rõ: “Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có năm vạn cặp mắt, năm vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”(9).

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Để các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn mỗi cán bộ, chiến sĩ công an phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; đặc biệt phải làm để dân tin, dân phục, dân yêu, phải là những cán bộ dân vận giỏi nhất, cán bộ dân vận tốt nhất.

Trong Bài nói tại Hội nghị Cán bộ Công an, ngày 29 tháng 4 năm 1963, Người nhấn mạnh: “Phải ra sức phát động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ trị an, giáo dục quần chúng nâng cao tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần cảnh giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích cực phòng và chống gián điệp biệt kích. Muốn đạt kết quả đó thì công an phải hết lòng giúp đỡ nhân dân và dựa vào lực lượng hùng mạnh của nhân dân... Làm tốt những việc đó, thì chúng ta nhất định thắng được địch. Đảng và Chính phủ tin vào lòng tuyệt đối trung thành và ý chí kiên cường phấn đấu của các đồng chí. Toàn thể cán bộ và chiến sĩ công an phải cố gắng vượt mọi khó khăn, làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của công an cách mạng, xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân, của Đảng và Chính phủ”(10).

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, đồng thời với sự giúp đỡ của nhân dân, thì sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng Công an nhân dân với các cấp, các ngành, nhất là với Quân đội nhân dân, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng có ý nghĩa quyết định.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Phải đi đúng đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an mới thành công được. Phải đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các ngành thì công việc mới thắng lợi”(11); “Các cấp ủy đảng phải thật sự giúp đỡ và lãnh đạo chặt chẽ công an”(12).

Bảo vệ bí mật Nhà nước là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Trong bài “Phải giữ bí mật của Nhà nước” đăng trên Báo Nhân dân, số 700, ngày 1 tháng 2 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Những văn kiện bí mật của Nhà nước quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Cho nên giữ bí mật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt là nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể”(13).

Người nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ bí mật Nhà nước: “Vấn đề này, nhắc đi nhắc lại đã nhiều lần. Nhưng tiếc thay, chứng bệnh không biết giữ bí mật vẫn rất phổ thông, rất trầm trọng. Nhiều cán bộ, nhân viên, binh sĩ, nhân dân còn mắc bệnh ấy. Chúng ta phải luôn nhớ rằng: trong chiến tranh, giữ bí mật hay không là điều rất quan hệ đến sự thắng hay bại. Nếu địch biết tin tức của ta, nó sẽ tìm đánh vào chỗ yếu của ta, thì địch sẽ thắng. Nếu ta thấy rõ tin tức của địch, ta sẽ tìm đánh vào chỗ yếu của nó, thì ta sẽ thắng”(14).

Người chỉ rõ: “Tất cả các cơ quan, bộ đội, tất cả các đoàn thể phải phụ trách thiết thực huấn luyện cho binh sĩ, cán bộ và nhân dân điều lợi, điều hại và cách giữ bí mật. Mỗi người phải coi việc giữ bí mật là một nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, đối với Chính phủ”(15).

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt, chăm lo xây dựng, rèn luyện lực lượng Công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, vì nhân dân phục vụ, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Giữa bộn bề công việc cấp bách của Đảng, Chính phủ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra gay go, quyết liệt, trong Thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu XII về “Tư cách người Công an cách mệnh”, ngày 11/3/1948, Người chỉ rõ những phẩm chất đạo đức và tư cách người Công an cách mạng phải có, đó là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.

Đối với công việc, phải tận tụy.

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.

Nội dung Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân có ý nghĩa sâu sắc, toàn diện đối với quá trình công tác, chiến đấu, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an. Đó là những phẩm chất không thể thiếu, là nhân tố quyết định để lực lượng Công an hoàn thành xuất sắc yêu cầu, nhiệm vụ được giao: Có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức trong sáng; có ý chí cách mạng tiến công, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.

Trong Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, Người dành điều đầu tiên để căn dặn cán bộ, chiến sĩ công an: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đây là  phẩm chất đạo đức đầu tiên và quan trọng nhất mà mỗi cán bộ, chiến sĩ công an phải có, phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, thì mới có cơ sở để phấn đấu thực hiện những điều Bác Hồ dạy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thực hiện lời dạy của Bác chính là nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao sức mạnh chính trị, tư tưởng, năng lực thực thi nhiệm vụ trong mỗi con người nói chung, nhất là đối với cán bộ, chiến sĩ công an nói riêng, tích cực học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”.

Trong Bài nói tại lớp nghiên cứu khóa I và lớp bổ túc khóa VI Trường Công an Trung ương, ngày 25 tháng 12 năm 1958, Người nhấn mạnh: “Công an đánh địch bên ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó hơn. Vì vậy, phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang. Công tác phải đi sâu và thiết thực. Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân thì khuyết điểm mới có thể khắc phục được và ưu điểm mới có thể phát huy được”(16).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân là một chỉnh thể thống nhất, sâu sắc và toàn diện về yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng đấu tranh, phương châm hành động, biện pháp công tác, mục tiêu phấn đấu, cống hiến, tu dưỡng, rèn luyện, chuẩn mực đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ công an, đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Học tập và thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân đã trở thành phong trào thi đua rộng lớn, liên tục trong Công an nhân dân suốt 70 năm qua, luôn là nội dung trọng tâm công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, tư tưởng của lực lượng Công an nhân dân trong các giai đoạn cách mạng trước đây, cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế ngày nay.

Thực tiễn công tác công an đã chỉ ra rằng, ở đâu, khi nào, cán bộ, chiến sĩ công an quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc những lời dạy của Bác Hồ, thì ở đó, khi đó, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân được giữ vững, công an được nhân dân tin yêu, cấp ủy, chính quyền tin cậy, các cấp, các ngành đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, can thiệp lật đổ ở nước ta với quy mô ngày càng mở rộng, cường độ ngày càng quyết liệt, tính chất ngày càng nguy hiểm, thâm độc, tinh vi, xảo quyệt. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, có mặt nghiêm trọng hơn, gây bức xúc trong nhân dân. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân vẫn mang tính thời sự, còn nguyên vẹn giá trị và là bài học quý báu đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đối với lực lượng Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, ra sức học tập, làm theo lời dạy của Bác Hồ, hơn lúc nào hết, lực lượng Công an nhân dân nguyện tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang; nêu cao tinh thần đoàn kết, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, hun đúc bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, chấp hành nghiêm kỷ luật, tận tụy với công việc, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân; phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, với các bộ, ban, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội và dựa vào nhân dân, xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng đối ngoại của đất nước để mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 365.

2. Sđd, tr. 10.

3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.31.

4. Sđd, tr.447.

5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.118.

6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 119.

7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.365.

8. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.447.

9. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.366. 10. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 55.

11. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 280.

12. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 55.

13. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 121.

14. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 57.

15. Sđd, tr. 58, 59.

16. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 280.

Đại tướng Trần Đại Quang - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an

Theo http://cand.com.vn

  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...