Thứ Hai, 31 tháng 7, 2023

KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG NGÀNH TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG (01/8/1930 – 01/8/2023)

 BÁC HỒ VỚI CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO


Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt Nam cũng chính là người đã khởi xướng, rèn luyện và để lại nhiều bài học quý báu cho đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng của Đảng.

Trong hành trình suốt 30 năm đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã là người tiên phong trong công tác Tuyên giáo. Năm 1919, Bác gia nhập Đảng xã hội Pháp. Năm 1920, Bác đã đọc tác phẩm của Lênin: “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” đăng trên báo L’ Humanité số ra ngày 17/7/1920. Tác phẩm này đã giải đáp cho Bác con đường giành độc lập, tự do cho đồng bào.

Thời gian này, Bác đã tìm cách thông qua hoạt động báo chí để tố cáo tội ác của thực dân Pháp gây ra cho nhân dân  Đông Dương, tranh thủ sự ủng hộ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thức tỉnh tinh thần yêu nước của bà con Việt kiều và cũng qua họ tìm cách đưa một số tài liệu báo chí về nước bằng nhiều con đường khác nhau để giác ngộ tinh thần độc lập dân tộc của nhân dân ta.

Bác đã lựa chọn một số thanh niên tiêu biểu sang đào tạo tại Liên Xô, mở nhiều lớp bồi dưỡng chính trị ngắn ngày cho một số thanh niên ưu tú tại Quảng Châu (Trung Quốc), chuẩn bị đội ngũ cán bộ trở về nước để tổ chức hoạt động, đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Cũng từ đây một số Ban của Đảng được ra đời. Trong đó Ban Tuyên giáo được ra đời ngày 1/8/1930, để tham mưu cho Trung ương và cấp uỷ trên các mặt công tác của Đảng.

Suốt chặng đường 86 năm thành lập, Ban Tuyên giáo của Đảng đã có những đóng góp to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, ngành Tuyên giáo đã và đang đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Sau khi cách mạng thành công, Bác đã căn dặn đội viên tuyên truyền xung phong: “Phải biết rõ mục đích tuyên truyền của mình và phải biết chịu kham khổ, phải biết nhẫn nại, chớ có lên mặt “quan cách mạng”.

Một lần khác nói chuyện với anh em cán bộ tuyên truyền Bác lại căn dặn: “Tuyên truyền, anh em nên chú ý một điều này nữa là bao giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền của mình mới có nhiều người nghe. Ta chớ bắt chước những nước tuyên truyền tin chiến tranh quá sai lạc sự thực”. Trong công tác tuyên truyền liên quan đến chính sách đối ngoại, Bác nhắc: “Các báo và các ban tuyên truyền nên hướng dẫn lòng yêu nước và chí cương quyết cố giành độc lập hoàn toàn của đồng bào một cách ôn hoà, bình tĩnh có lợi cho ngoại giao…”.

Không chỉ vậy, Bác còn nhấn mạnh: Công tác Tuyên giáo phải xuất phát từ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng mà xác định nhiệm vụ, nội dung, phương pháp hoạt động; phải phục vụ đắc lực cho việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng ta, của dân tộc ta.

Tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi, ngày 31/8/1963, Bác đã nói: “Nhiệm vụ công tác Tuyên huấn có thể chia ra hai mặt: một mặt là làm sao mưu lợi cho đồng bào; một mặt nữa là làm sao tránh được tệ hại cho đồng bào”. Để mưu lợi cho nhân dân và tránh tệ hại cho nhân dân, Bác chỉ rõ: Tính Đảng là nguyên tắc và nền tảng của công tác Tuyên giáo, nó bảo đảm cho các hoạt động Tuyên giáo của Đảng giữ vững lập trường giai cấp công nhân, phục vụ nhân dân; tính khoa học của công tác tuyên giáo phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, từ quy luật phát triển của xã hội, lấy đó làm cơ sở giải thích cho nhân dân hiểu một cách có căn cứ khoa học những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra, để từ đó, họ hành động tự giác, có hiệu quả. Bác còn chỉ rõ: Quá trình tiến hành công tác tuyên giáo phải đảm bảo tính chân thực, để nhân dân nhận thức đúng và hành động đúng đường lối của Đảng.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Bác Hồ luôn nêu một tấm gương sáng, một mẫu mực tuyệt vời về công tác Tuyên giáo phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị của Đảng, phục vụ nhân dân, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng, nêu cao ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước vận mệnh đất nước.

Để hoạt động Tuyên giáo có hiệu quả, Bác đòi hỏi cán bộ Tuyên giáo phải nói và viết sao cho “phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc”, làm cho người nghe, người đọc “hiểu được, nhớ được và làm được”. Bác còn đòi hỏi cán bộ Tuyên giáo phải có phong cách đi sâu, đi sát cơ sở, đến những mũi nhọn của mặt trận sản xuất và chiến đấu, nơi có phong trào khá và cả những nơi có phong trào kém, phát hiện và giải đáp được những vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Bác nhấn mạnh: Chỉ có đi sâu vào thực tiễn đời sống xã hội thì mới tìm hiểu, đánh giá đúng thực chất tình hình công tác Tuyên giáo của địa phương, đơn vị, mới phát hiện được những vấn đề mới, nhân tố mới, những điển hình tốt, người tốt việc tốt để cổ vũ, biểu dương, nhân rộng, đồng thời vạch ra những hiện tượng, những biểu hiện sai trái để phê phán, uốn nắn nhằm đẩy mạnh việc phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Ngay cả những ngày ốm nặng và sắp đi xa, Bác vẫn dành thời gian làm việc với các đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên huấn Trung ương nghe báo cáo tình hình chiến trường miền Nam, tình hình lũ lụt ở sông Hồng và không quên nhắc phải quan tâm việc phát hành loại sách: “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến trên các mặt sản xuất, chiến đấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Học tập theo lời dạy của Bác, những năm qua, trên suốt chặng đường cách mạng, trong kháng chiến và kiến quốc, Đảng ta luôn khẳng định công tác Tuyên giáo có vai trò đặc biệt, là một lĩnh vực trọng yếu trong công tác lãnh đạo, tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mọi thời kỳ, mọi chặng đường đất nước.

Những năm qua, trong công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đất nước nói chung, công tác Tuyên giáo đã không ngừng đổi mới, từng bước vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, hành động cách mạng góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Trong công cuộc đổi mới vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức, nhưng nhờ sự nỗ lưc của các cấp ủy đảng công tác tuyên giáo có những tiến bộ, đổi mới đáng kể, góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh. Đặc biệt, công tác tuyên giáo đã triển khai nghiêm túc Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.


Với phương châm công tác tuyên giáo bám sát nhiệm vụ chính trị, hướng về cơ sở, góp phần có hiệu quả vào giải quyết đúng đắn những vấn đề cấp thiết đặt ra ở cơ sở, tạo được sự chuyển biến thật sự về chất ở cơ sở xây dựng được các phong trào cách mạng của nhân dân ở cơ sở, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, công tác tuyên giáo sẽ hoàn thành tốt những mục tiêu và những nhiệm vụ mà Đảng bộ và nhân dân tin tưởng giao phó.

Tư tưởng của Bác, tấm gương đạo đức cách mạng của Bác và những lời dạy của Bác đã và đang tiếp sức cho những người làm công tác Tuyên giáo cả nước nói chung tiếp tục phấn đấu hơn nữa để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới của đất nước.

Nguồn: baonghean.


Thứ Hai, 24 tháng 7, 2023

KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ (27/7/1947 – 27/7/2023)

 TẤM LÒNG CỦA BÁC HỒ VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

“Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống đạo lý nhân ái có từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống tốt đẹp đó đã và đang được Nhân dân ta phát huy từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà Bác Hồ là một tấm gương tiêu biểu nhất. Là Chủ tịch nước, mặc dù bận rất nhiều công việc, nhưng hàng năm cứ đến “Ngày Thương binh-liệt sĩ” Bác đều gửi thư cho các đồng chí thương binh và gia đình liệt sĩ. Đọc những bức thư đó, ai cũng cảm nhận được tình cảm của Bác dành cho họ.

Trong Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi, Bác viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho các gia đình liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”. Khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, Giám đốc Y tế Bắc Bộ hy sinh, trong thư chia buồn, Bác viết: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn một”. 

 Trong Thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”, Bác nói về ý nghĩa cao cả của ngày 27 tháng 7. Đó là “Một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh”. Bác là người đề xuất phong trào “Đón thương binh về làng” với những việc làm rất cụ thể. Bác khuyên các cháu thiếu nhi lập phong trào Trần Quốc Toản để giúp đỡ gia đình bộ đội và thương binh v.v…

Bác kêu gọi đồng bào cả nước hãy thể hiện tình cảm thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình bằng những việc làm thiết thực nhất: “Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sỹ bị thương”. Chính Người đã tiên phong gương mẫu thực hiện lời kêu gọi đó: “Tôi xin xung phong gửi 1 chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng". Đặc biệt, nhân ngày 27 tháng 7 hàng năm, Bác trích một tháng lương Chủ tịch nước của mình tặng các đồng chí thương binh. Những tặng phẩm của đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài kính tặng Bác, Bác tặng lại các đồng chí thương binh.



Tháng 9-1951, Bác gửi thư cho anh em thương binh Trại dệt chiếu Tuyên Quang. Như tình cảm của người cha dành cho con, ân cần, tỉ mỉ, Bác hỏi: Học dệt chiếu cần bao nhiêu ngày, tháng? Trung bình dệt một chiếu thường cần mấy giờ và bao nhiêu vốn? Bán một chiếu được bao nhiêu lời? Với nghề dệt chiếu, có thể đủ ăn, đủ mặc không?

Hay câu chuyện, Bác yêu cầu chuyển chiếc điều hòa nhiệt độ trong phòng mình để gắn cho trại điều dưỡng thương binh. Đó là một trong nhiều câu chuyện thể hiện tấm lòng nhân ái bao la của một con người mà cả cuộc đời “Nâng niu tất cả, chỉ quên mình” của Người.

Những món quà của Bác giản dị nhưng vô cùng quý giá vì đó chính là sự quan tâm chăm sóc, là tình cảm của Người dành cho thương bệnh binh. Những món quà đó là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần to lớn đối với thương bệnh binh, làm ấm lòng người chiến sĩ. Đáp lại tình cảm ấy, bằng tinh thần và nghị lực của anh bộ đội Cụ Hồ, nhiều thương, bệnh binh và gia đình liệt sỹ đã có nhiều cố gắng vươn lên, tự lực cánh sinh trong lao động sản xuất, học tập và trong cuộc sống. Họ không những đã tạo ra công ăn việc làm cho mình và gia đình mình, mà còn tích cực giúp đỡ đồng đội và con em của họ, tạo dựng nên một cuộc sống có ích hơn, tươi đẹp hơn. Họ đã làm đúng theo lời Bác dạy: Thương binh tàn nhưng không phế.

Trước lúc đi xa, Bác đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta Bản Di chúc lịch sử, trong đó có phần viết về chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và những người đã kinh qua chiến đấu. Bác viết: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét. Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Thực hiện lời Bác dặn, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách ưu tiên đối với thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Đồng bào ta trên khắp mọi miền của Tổ quốc cũng đã làm nhiều công việc để đền ơn đáp nghĩa, như: Tặng quà cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách, xây nhà tình nghĩa, lập Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng các mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam, giúp đỡ thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ, tìm mộ liệt sĩ,… Việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất, giảm bớt một phần khó khăn trong cuộc sống cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ là tình cảm, trách nhiệm và bổn phận của toàn xã hội. Xã hội ta sẽ ngày càng tốt đẹp hơn từ những việc làm đầy tình nghĩa đó. Phong trào đền ơn đáp nghĩa đã, đang và sẽ được Nhân dân ta nhân lên và phát huy ngày càng rộng rãi./.

LG







NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN QUẬN 5 LẦN THỨ XII NHIỆM KỲ 2023 - 2028

 NHỮNG LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ ĐỐI VỚI CÔNG ĐOÀN


Trong những năm 1920, cùng với quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã làm hết sức mình để giác ngộ và thức tỉnh giai cấp công nhân Việt Nam đến với phong trào đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc. Người luôn giành sự quan tâm sâu sắc đến quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Người cho rằng: giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam cần phải có một tổ chức, đó là tổ chức Công hội.

Người đã khái quát một số chức năng, nhiệm vụ của Công hội đó là: “Tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình với nhau, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Ngày 28-7-1929, dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng đã cử đồng chí Nguyễn Đức Cảnh triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam tiền thân của Công Đoàn Việt Nam ngày nay.

 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu không chỉ là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, mà Người còn đặt cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thành lập và phát triển tổ chức Công đoàn Việt Nam - một tổ chức quan trọng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.

Trong suốt quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng sau này, Bác Hồ đặc biệt quan tâm tới từng bước đi, bước trưởng thành của Công đoàn Việt Nam. Người thường xuyên quan tâm đến công tác công đoàn và phong trào công nhân lao động; dành nhiều thời gian để đi thăm, nói chuyện và chỉ dẫn về công tác công đoàn tại các nhà máy, xí nghiệp, lâm trường… Trực tiếp Bác Hồ đã ký Sắc lệnh ban hành Luật Công đoàn, trong đó chỉ rõ mục đích của tổ chức công đoàn: “Công đoàn là phải cải thiện đời sống công nhân, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của giai cấp công nhân nói riêng và nhân dân nói chung”; đồng thời giao cho tổ chức công đoàn quyền quản lý, điều hành Quỹ bảo hiểm xã hội để duy trì hoạt động công đoàn và bảo đảm lợi ích thiết thực của người lao động.

Về nhiệm vụ của Công đoàn, trong chuyến thăm và nói chuyện với cán bộ, giáo viên và học viên Trường cán bộ Công đoàn ngày 19-1-1957, Người nêu rõ 6 nhiệm vụ cơ bản là:

1. Công đoàn phải tuyên truyền đường lối, chính sách chung của Đảng, vì Đảng mình là Đảng của giai cấp vô sản. Đường lối chung là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được, Đảng mà không có giai cấp công nhân cũng không làm được gì. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc. Bởi thế, Công đoàn phải hiểu để giải thích cho công nhân hiểu: công nhân không có sự lãnh đạo của Đảng thì không làm cách mạng thành công được, không thắng lợi được. Vậy phải tuyên truyền sâu rộng chính sách chung của Đảng trong hàng ngũ giai cấp công nhân.

2. Công đoàn phải giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng.

3. Công đoàn và cán bộ công đoàn phải học trước để hiểu biết khoa học.

4. Nội bộ công nhân phải đoàn kết, nhà máy này đoàn kết với nhà máy khác, cán bộ công nhân miền Nam và miền Bắc phải đoàn kết. Ta kháng chiến thắng lợi cũng nhờ đoàn kết. Ta xây dựng nền hòa bình thắng lợi cũng nhờ đoàn kết. Ta đoàn kết nội bộ công nhân đồng thời củng cố sự liên minh của công nhân và nông nhân là hai giai cấp lớn nhất, mạnh nhất.

5. Công đoàn và cán bộ công đoàn phải tìm cách này hay cách khác giải thích cho công nhân hiểu rõ tình hình trong nước và ngoài nước… phải giải thích cho họ hiểu. Nếu không họ sẽ hoang mang… Do hiểu được tình hình mà nâng cao tinh thần yêu nước của công nhân.

6. Công đoàn phải lãnh đạo, hướng dẫn công nhân. Lãnh đạo phải cụ thể, không quan liêu. Phải dân chủ bàn bạc với anh em công nhân. Phải kiểm tra. Làm mà không kiểm tra thì không biết kết quả ra sao, không hiểu sai lệch thế nào để kịp thời sửa chữa.”

Về cán bộ công đoàn, Bác căn dặn: “Cán bộ công đoàn phải là người hiểu biết sản xuất, đời sống, nguyện vọng của công nhân, viên chức, phải hiểu chính sách của Đảng, phải hiểu hiểu quản lí kinh tế, khoa học kỹ thuật…”; và trong công tác: “Cán bộ công đoàn phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc và bàn bạc với công nhân”.

Về công tác công đoàn, Người chỉ rõ tầm quan trọng của tổ chức công đoàn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Muốn tổ chức và phát triển lực lượng xây dựng to lớn của giai cấp công nhân thì cần có Công đoàn mạnh và cán bộ công đoàn tốt”. Người yêu cầu công đoàn các cấp phải chủ động xây dựng quan hệ đoàn kết và phối hợp giúp đỡ nhau giữa các tổ chức và các ngành nghề; phải chống tư tưởng chờ đợi, ỷ lại và cục bộ; phải có kế hoạch bồi dưỡng các anh hùng và chiến sĩ thi đua để phát huy vai trò kiểu mẫu và tác dụng đầu tàu của họ; đối với anh em lao động trí óc và cán bộ khoa học kỹ thuật, phải có kế hoạch giúp đỡ họ không ngừng tiến bộ và đoàn kết; Công đoàn phải làm tốt công tác bảo hộ lao động, phải thực sự chăm nom nơi ăn, nhà ở của công nhân viên chức. Công đoàn các cấp cần phải cải tiến lề lối làm việc, sâu sát và thiết thực”.

Trong bài nói chuyện tại Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ II, tháng 2-1961, Bác nhấn mạnh: “Phát minh, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật cũng là vấn đề quan trọng. Phải nhận rằng đại đa số công nhân ta cần cù, thông minh và có nhiều sáng kiến hay… Nếu Công đoàn biết khuyến khích, áp dụng, cải tiến và phổ biến rộng rãi những sáng kiến ấy thì năng suất lao động sẽ nâng cao không ngừng”. Và “Công đoàn phải có biện pháp thiết thực để nâng cao trình độ văn hóa và kỹ thuật của công nhân, phải tùy khả năng cộng với cố gắng mà nâng cao dần đời sống vật chất của họ; phải chú ý bảo vệ sức khỏe, bảo vệ an toàn lao động và tăng cường công tác vệ sinh…”.

Từ những lời dạy của Bác, tổ chức công đoàn các cấp đã không ngừng đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, dấy lên nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao góp phần làm giàu cho đất nước. Trong những năm 1960, nhiều phong trào thi đua lớn đã được phát động mang lại những kết quả vô cùng to lớn như: Phong trào “Thi đua ái quốc”, phong trào “Tăng gia sản xuất”, “Tất cả cho tuyền tuyến”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Năng suất – chất lượng – hiệu quả”, “Lao động giỏi”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Thi đua hai tốt”… đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử phong trào công nhân và lịch sử Công đoàn Việt Nam.

Làm theo lời dạy của Bác, tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển và trưởng thành, trở thành điểm tựa cho đông đảo công nhân, viên chức, lao động của cả nước; Công đoàn Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của Đảng và Nhà nước, là lực lượng đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với khẩu hiệu: “Đổi mới, sáng tạo, vì lợi ích của đoàn viên, công nhân, viên chức lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước”, “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”.

(Nguồn TapchiXaydungĐang)



Thứ Hai, 10 tháng 7, 2023

NGHĨ VỀ CHỮ ĐỨC, CHỮ TÀI CỦA NGƯỜI CÁN BỘ

 


Mỗi khi nói về cán bộ, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng coi trọng cả đức và tài, trong đó đức phải là gốc. Theo Người, cán bộ mà không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Đã hơn nửa thế kỷ, những lời căn dặn ấy ngày càng thấy thấm thía, nhất là trong xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay.

Sau khi cách mạng giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay đến việc tìm người tài đức để kiến thiết đất nước. Trên Báo Cứu quốc số ra ngày 20/11/1946, Người viết “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức”. Sau này, trong nhiều bài viết, hay những lần nói chuyện, Người cũng thường nói đến đức và tài của người cán bộ.

“Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước”

Là người trọng dụng nhân tài, không phân biệt người từng làm việc dưới chế độ cũ, hay ngoài Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến chữ đức. Theo Người, muốn có đạo đức cách mạng thì phải có nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Tức là phải biết yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào; ngay thẳng không có tư tâm, không làm việc bậy; sáng suốt, biết xem người, xem việc, biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.

Cán bộ có đạo đức cách mạng còn phải là người dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa; không tham địa vị, không tham tiền tài, không ham người tâng bốc mình, quang minh chính đại... Đó là đạo đức mới, chứ không phải thứ đạo đức thủ cựu.

Có đức thôi chưa đủ mà còn phải có tài; đức và tài hòa vào nhau, hỗ trợ nhau làm nên phẩm chất người cách mạng. Người cho rằng, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.

Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, phải trọng nhân tài, trọng mỗi người có ích cho công việc chung; phải hiểu rõ cán bộ, cất nhắc cán bộ cho đúng, nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Phải khéo dùng cán bộ, tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ. “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ”.

Ở những cán bộ tốt, không thể thiếu hai phẩm chất là đức và tài. Trong dịp nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I, ngày 12/6/1956, Người căn dặn “Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”.

Có tài, tức là có năng lực trí tuệ mới có thể làm nên những việc lớn, việc khó để phụng sự Tổ quốc, nhưng tài phải đi liền với đức, nếu thiếu đức mà làm những việc bất chính thì hại cho đất nước vô cùng. Điều ấy hiển nhiên như một quy luật “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo”.

“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống”

Đạo đức cách mạng là phẩm chất cao quý đối với người cán bộ, không thể tự nhiên mà có. Trên Tạp chí Học tập, số tháng 12/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh có bài viết Đạo đức cách mạng.

Trong đó, tác giả phân tích rất sâu việc người cách mạng phải thường xuyên rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, để chống lại chủ nghĩa cá nhân bởi nó “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”.

Theo Người, vì chưa gột sạch được chủ nghĩa cá nhân, nên có đảng viên kể công với Đảng, có ít nhiều thành tích thì đòi ưu đãi, đòi danh dự, địa vị, đòi hưởng thụ, nếu không thỏa mãn yêu cầu thì oán trách Đảng, cho rằng không có tiền đồ, “bị hy sinh”, rồi dần dần xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng,... Đó là những thứ trái ngược với đạo đức cách mạng mà người cán bộ không dễ gì lúc nào cũng thắng được.

Chính vì thế năm 1969, dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng, Người lại viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đăng trên Báo Nhân Dân, có tính tổng kết thực tiễn, phát triển tư tưởng về đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh, do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành; mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.

Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách toàn diện. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 35 năm đổi mới có sự đóng góp đáng kể của đội ngũ cán bộ các cấp. Song, công tác cán bộ hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều lo ngại. Chưa bao giờ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được làm quyết liệt như những nhiệm kỳ gần đây.

Không ít cán bộ, kể cả cấp cao bị xử lý kỷ luật, thậm chí xử tù. Đáng nói là trong đó có nhiều cán bộ được đào tạo cơ bản, đã thử thách qua nhiều cương vị công tác, từng được tôn vinh vì có uy tín, có thành tích nổi trội. Một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến việc đau lòng đó là do chủ nghĩa cá nhân “nó khéo dỗ dành” làm cho con người ta không chiến thắng được chính mình, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Công bằng mà nói, chưa bao giờ chúng ta có đội ngũ cán bộ trưởng thành như hiện nay. Ở đây có điều cần nhìn sâu hơn, đó là cán bộ có chuyên môn được đào tạo bài bản, đã dày công rèn luyện, thì tài năng của họ không thể mai một. Nhưng, nếu người cán bộ tài năng mà thiếu rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức thường xuyên thì ngay cả khi đã có uy tín, có quyền lực thì vẫn dễ dàng bị nhiều thứ cám dỗ, khó giữ mình và chỉ một cái tặc lưỡi là lòng dạ “không còn trong sáng nữa”.

Thế là người ấy không chỉ đánh mất danh dự, nhân phẩm của chính mình, còn ảnh hưởng đến hình ảnh người cán bộ, làm giảm sút uy tín của Đảng. Trong số các vụ án mới xử vừa qua có thể kể tên hàng loạt các trường hợp cán bộ mắc sai phạm do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Tài và đức của người cán bộ đều phải khổ luyện mới có được, nhưng cái đức dễ bị lung lay trước hoàn cảnh cám dỗ. Để có cán bộ tài đức vẹn tròn là quá trình dày công dìu dắt của Đảng, nhưng muốn giữ được tài đức thì người cán bộ phải không ngừng tự rèn luyện.

Hơn bao giờ hết, mỗi người cán bộ phải nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”./.

BẮC VĂN


Thứ Hai, 3 tháng 7, 2023

KỶ NIỆM 73 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG LỰC LƯỢNG THANH NIÊN XUNG PHONG VIỆT NAM (15/7/1950 - 15/7/2023)

NHỚ CHUYỆN BÁC HỒ

TẶNG LỰC LƯỢNG THANH NIÊN XUNG PHONG BỐN CÂU THƠ


Thanh niên xung phong (TNXP) là lực lượng quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong bảo vệ, kiến thiết đất nước sau này. Trong suốt quá trình ra đời và phát triển lớn mạnh, lập nên bao kỳ tích, lực lượng Thanh niên xung phong luôn nhận được sự quan tâm, dìu dắt và động viên khích lệ hết sức quý báu của Bác Hồ.

    Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến công. Tháng 9-1950, Trung ương Ðảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới, giải phóng vùng Cao - Bắc - Lạng. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải huy động một lực lượng lớn nhân công mở đường, tải lương, phục vụ bộ đội chiến đấu. Lực lượng này phải là những thanh niên trẻ, khỏe, có tinh thần hăng hái xung phong, chịu đựng hy sinh, có tổ chức chặt chẽ, có tinh thần sẵn sàng và khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ. Theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15-7-1950, “Ðội thanh niên xung phong công tác Trung ương” được thành lập gồm 225 đội viên do đồng chí Vương Bích Vượng, Ủy viên Ban Chấp Hành Ðoàn thanh niên cứu quốc làm Đội trưởng. Từ đó, 71 năm qua, lực lượng TNXP đã phát triển đến trên 45 vạn người, thường xuyên có mặt ở những nơi cam go, ác liệt, góp phần làm nên những kỳ tích vang vọng muôn đời.

 Vinh dự lớn cho TNXP Việt Nam, là một trong những lực lượng được Ðảng, Bác Hồ hết sức tin cậy, chăm sóc và dìu dắt từng bước trưởng thành. Kể từ ngày thành lập tổ chức TNXP đầu tiên ngày 15-7-1950 cho đến ngày Bác đi xa, Bác đã 21 lần đến thăm, nói chuyện, viết thư khen, viết bài đăng trên Báo Nhân dân về TNXP. Một trong những lần thăm, Bác đã tặng bài thơ nổi tiếng nhất có tầm triết lý sâu sắc, có tính giáo dục cao đối với sự rèn luyện của mỗi cá nhân, của các thế hệ thanh niên. Chuyện kể rằng:

    “Ðêm 20-3-1951, một đêm rét đậm. Bác Hồ đến thăm Phân đội 312 của Ðội TNXP công tác Trung ương khi đang làm nhiệm vụ sửa chữa tại cầu Nà Cù, thôn Nà Tu, xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, đảm bảo giao thông thông suốt đoạn Nà Cù - Phủ Thông. Sau khi ân cần hỏi han chuyện ăn ở, Bác hỏi:

    - Ðào núi có khó không?

    Người thưa khó, người thưa không khó. Bác hỏi tiếp:

    - Có ai dám đào núi không?

    Một nữ đội viên mạnh dạn:

    - Thưa Bác, có ạ… TNXP chúng cháu hằng ngày vẫn đào núi để bảo đảm giao thông đấy ạ!

    Bác cười vui:

    - Ðào núi, nói không khó là không đúng. Khó nhưng con người vẫn dám làm và làm được… Rồi Bác đọc tặng anh chị em TNXP trong buổi nói chuyện hôm đó bốn câu thơ:

     Không có việc gì khó

     Chỉ sợ lòng không bền

     Ðào núi và lấp biển

     Quyết chí ắt làm nên!”

    Nội dung bốn câu thơ của Bác là tầm nhìn chiến lược, là tư duy khoa học và cách mạng, là lời huấn thị chính trị, tư tưởng, định hướng và hành động, là sự ghi nhận, gửi gắm niềm tin và tình cảm sâu sắc của Đảng, của Bác dành cho TNXP Việt Nam và thế hệ trẻ cả nước trước vận mệnh thiêng liêng của Tổ quốc. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, bốn câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng lực lượng TNXP đã thắp lên ngọn lửa truyền thống yêu nước, truyền thống hào hùng của lực lượng TNXP, góp phần tạo nên phẩm chất cách mạng vẻ vang cho các thế hệ trẻ Việt Nam, bắt nguồn từ tư tưởng lớn của Bác Hồ về TNXP, coi TNXP là một trường học lớn của cách mạng để giáo dục, giác ngộ, đào tạo đội ngũ cán bộ “vừa hồng” “vừa chuyên” phục vụ kháng chiến thắng lợi và phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

    Năm 1953, sau ba năm thành lập, với bút danh C.B, Bác đã viết bài “Ðội Thanh niên xung phong” đăng trên Báo Nhân dân số 147: “Kháng chiến càng tiến tới, công việc ngày càng nhiều, chúng ta cần củng cố và phát triển Ðội TNXP để bảo đảm thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này. Nhiệm vụ của Ðội TNXP là xung phong mọi việc bất kỳ việc khó, việc dễ và phục vụ đến ngày kháng chiến thành công. Ðó là nhiệm vụ rất vẻ vang của thanh niên”.

    Thực hiện lời Bác dạy, từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Ðiện Biên Phủ, hàng chục vạn thanh niên từ Việt Bắc, Tây Bắc, Khu ba, Khu bốn và cả Liên khu Năm, Nam Bộ nô nức lên đường gia nhập bộ đội, gia nhập lực lượng TNXP và đã vượt qua muôn trùng khó khăn gian khổ, mọi ác liệt, hiểm nguy với quyết tâm: “Quyết chí ắt làm nên”, góp phần cùng toàn quân, toàn dân lập nên chiến công Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ của đế quốc Pháp.

    Ngày 27-1-1969, Bác Hồ đã gửi tặng lẵng hoa và thư khen đơn vị TNXP 333 có nhiều thành tích xuất sắc trên các tuyến đường Khu Bốn ác liệt: “Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng. Và, giặc Mỹ đã thua to ở hai miền nước ta, chúng đang thất bại ngày càng nặng nề hơn ở miền nam, nhưng chúng vẫn rất ngoan cố chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Vì vậy, Bác nhắc nhở các cháu: Phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng, cùng quân dân ta quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược; luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa để ngày càng tiến bộ, đem hết nhiệt tình tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”. Ðây cũng là bức thư, lời căn dặn cuối cùng đối với TNXP của Bác trước lúc Người đi xa. Tình yêu thương của Bác mãi mãi khắc sâu trong lòng mọi người Việt Nam yêu nước, đã và mãi mãi là động lực to lớn của các thế hệ thanh niên nói chung, TNXP nói riêng.

    Trong hai cuộc kháng chiến, cứu nước, giải phóng dân tộc, thực hiện lời Bác dạy, hàng chục triệu thanh niên đã lao động chiến đấu dũng cảm, lập nên những kỳ tích: như kéo pháo qua đèo cao, suối sâu đưa lên trận địa nã đạn vào đầu quân giặc. Từ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai” [Tố Hữu];  từ “Tiếng hát át tiếng bom” đến súng trường hạ máy bay phản lực Mỹ; từ lấy thân làm cọc tiêu cho những đoàn xe nối nhau ra trận đến lấy thân đè lên phá bom nổ chậm... của các chiến sĩ TNXP. Trong giai đoạn này, TNXP đã lập nhiều chiến công, đã mở được 102 con đường chiến lược với tổng chiều dài 4.130 km, vận chuyển 10 vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực cho chiến trường; trực chiến, chốt giữ, bảo đảm 3.000 trọng điểm giao thông quan trọng thường xuyên bị địch đánh phá ác liệt; san lấp trên 100.000 hố bom; đào 1.135 km hầm hào, xây dựng 8 bệnh viện dã chiến và 272 kho tàng; phá, gỡ, thu gom trên 100.000 quả bom các loại; bắn rơi 15 máy bay Mỹ; bắt sống 13 phi công và gần 1.000 tên địch (trong đó có 286 lính Mỹ), phá hủy 20 xe tăng và xe bọc thép, phục vụ bộ đội 1000 trận đánh; trực tiếp chiến đấu 40 trận; bổ sung 16.000 người sang quân đội; cáng tải, chăm sóc 2.077 thương binh, tử sĩ; đưa 18.000 lượt bộ đội qua sông; cung cấp cho lực lượng vũ trang và Trung ương Cục miền Nam trên 500 cán bộ; 15.000 người được kết nạp vào Đảng; 52 người là Dũng sĩ diệt Mỹ; 1.432 người là Dũng sĩ Quyết Thắng... Nhưng cũng đã có 6.051 TNXP hy sinh; 42.455 TNXP bị thương, 18.000 TNXP và con đẻ bị nhiễm chất độc da cam.

    Sau ngày miền Nam giải phóng, giang sơn thu về một mối và sau hơn 35 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng, thực hiện lời dạy của Bác, 35 vạn cựu TNXP kháng chiến đã và đang tập hợp vào tổ chức Hội cựu TNXP, mang tính chất chính trị, xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đang dấy lên một sức mạnh tinh thần mới, nhằm phát huy truyền thống kiên cường, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong kháng chiến cứu nước thành hành động thi đua phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Hàng chục vạn cựu TNXP đã vượt khó, vươn lên, nêu gương sáng trong cuộc sống phục vụ sự nghiệp giáo dục truyền thống và lý tưởng cách mạng của Ðoàn, của Ðảng, của Bác Hồ cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, lực lượng TNXP đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Thành đồng Tổ quốc; Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng bức trướng ghi dòng chữ: “Thanh niên xung phong chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạo, lập công xuất sắc”; 42 tập thể và 40 cá nhân đã được truy tặng, phong tặng Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

    Kỷ niệm 73 năm Ngày truyền thống lực lượng TNXP và 72 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng lực lượng TNXP Việt Nam 4 câu thơ vẫn còn nguyên giá trị, vẫn thể hiện đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn, là tầm nhìn chiến lược về con người, là lời giáo huấn không chỉ với TNXP, đối với tuổi trẻ Việt Nam mà cho cả cán bộ, đảng viên và dân tộc Việt Nam; lời thơ của Bác là sự quan tâm, động viên, sẻ chia, là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt, để giáo dục giác ngộ cách mạng, lý tưởng cách mạng và nâng cao ý chí, nghị lực cho thế hệ trẻ Việt Nam và dân tộc Việt Nam, lời thơ có sức sống trường tồn, lan tỏa qua các thế hệ ở hiện tại, trong tương lai và mãi mãi phát triển cùng non sông đất nước.

    Ngoài ra, bốn câu thơ của Người còn thể hiện tư tưởng mang tính chiến lược “Trường học lớn TNXP”, một phương thức tổ chức giáo dục, đào tạo, rèn luyện thanh niên rất đặc sắc. Nối tiếp truyền thống anh hùng của các thế hệ TNXP cha anh, ngày nay các thế hệ TNXP thời kỳ đổi mới do Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh kế tục tổ chức, chỉ đạo theo tư tưởng trường học lớn TNXP của Bác Hồ trong điều kiện mới, với nội dung và hình thức thích hợp, thu hút hàng triệu lượt nam nữ thanh niên tham gia vào các tổng đội, công ty TNXP. Các đơn vị đã thực hiện các dự án làm đường, trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, làm kinh tế trang trại, lập làng thanh niên lập nghiệp, tình nguyện lên biên giới, ra hải đảo, đem ánh sáng văn hóa của Ðảng đến với đồng bào các dân tộc vùng cao… Kế thừa di sản 73 năm xây dựng và phát triển, cán bộ, đội viên của Lực lượng TNXP Việt Nam luôn tự hào về thành quả mà các thế hệ TNXP đã tạo dựng lên, đồng thời tiếp tục vun đắp cho truyền thống TNXP Việt Nam ngày càng phát triển trong tổ chức của mình, trong xã hội và làm cho tất cả những ai đã từng khoác trên người màu đồng phục TNXP luôn tự hào vì đã có một thời được sống, chiến đấu, học tập rèn luyện, trưởng thành trong môi trường TNXP. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, lực lượng TNXP Việt Nam đã, đang và mãi mãi là niềm tự hào của Ðảng, Nhà nước và Nhân dân ta, tiếp tục là một “Trường học lớn của Tuổi trẻ” như Bác Hồ đã tin tưởng giao phó./.

Thành Hùng

  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...