Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

MÚA LÂN NGÀY TẾT

 


Cứ độ xuân về, Tết đến, trong làng, ngoài ngõ hay ngay cả những đô thị lớn khi nghe tiếng trống thùng thình vang lên, mọi người đều hân hoan chào đón sự chuyển động đầy uy dũng, đẹp đẽ của những chú Lân nhiều màu sắc, cùng điệu cười hồn nhiên của ông Địa, đã mang lại không khí rộn ràng cho mùa Xuân ấm áp và rực rỡ. Ngày Tết là thế, cùng với hoa mai, hoa đào, bánh chưng xanh, câu đối đỏ... múa Lân đã trở thành một nét đẹp văn hóa, đầy sinh động, kỳ vọng cho một năm mới cát tường, như ý.

 

Kỳ lân xuất thế - Thiên hạ thái bình

Trong văn hóa biểu tượng của người phương Đông, lân là một trong bốn linh vật cao quý, thiêng liêng “Long - Lân - Qui - Phụng” và được người dân thờ cúng ở các đình, đền thờ. Trong một số nền văn hóa, người ta xem con Lân ngang với Rồng, là biểu tượng của thiên tử. Người dân Ấn Độ đã thờ lân từ mấy ngàn năm nay. Văn hóa Trung Quốc tin rằng, Kỳ Lân chỉ xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Nhiều sách vở đã kể, lúc Khổng Tử chào đời thì có Kỳ Lân xuất hiện và phun ra quyển ngọc thư. Kinh sách của Đức Khổng Tử viết ra vào đời Xuân Thu. Tương truyền rằng sau khi đi chu du các nước để đem học thuyết của mình truyền bá trong thiên hạ, Đức Khổng Tử không được nước nào trọng dụng, vì bấy giờ ai ai cũng lo việc tranh bá đồ vương, ngài mới trở về đất Lỗ để viết sách Xuân Thu. Một hôm, đang viết sách ngài nghe có người bắt được con Kỳ Lân, nhưng không biết đó là vật linh nên đánh què chân. Ngài vô cùng thương tiếc, vì ngài cho rằng con Kỳ Lân ứng vào việc làm của Ngài (người xưa quan niệm, Kỳ Lân xuất thế là điềm nhân tài xuất hiện), nay Kỳ Lân bị đánh què, tức là công việc của ngài không hợp thời và sau đó, ngài không viết sách nữa. Do đó, sách Xuân Thu của Khổng Tử chỉ kể đến bắt được Kỳ Lân là chấm dứt, nên người đời sau gọi Kinh Xuân Thu là Lân Kinh.

Đó là truyện của Đức Khổng Tử, trong dân gian lại có chuyện kể rằng, thưở xưa, trên trần gian xuất hiện một con quái thú luôn đi phá hại dân lành, gây ra bao nhiêu lầm than, khốn đốn. Mỗi năm, con quái thú đó xuất hiện dưới trần gian một lần để bắt người và thú vật ăn thịt, gieo rắc kinh hoàng cho khắp mọi nơi. Người dân kêu thán, cúng vái và tìm mọi cách diệt trừ nó nhưng đều thất bại trước sự hung hãn, mạnh bạo của nó. Vào một ngày nọ, người ta thấy xuất hiện một vị sư với vẻ ngoài mập mạp, gương mặt phúc hậu, hiền hòa, trên miệng lúc nào cũng cười toe toét, trên tay ông có cầm linh chi thảo phẩy phẩy như để dẫn nhử con quái thú này. Như một phép màu, con quái thú liền đi theo ông và được ông dạy cho nó biết ăn cỏ, và quy phục theo ông. Từ đó, hằng năm ông đều cho con quái đó xuống trần nhảy múa, mang đến cho mọi người sự may mắn và phát tài phát lộc, đó cũng là một cách tạ lỗi với nhân gian của con Lân. Kể từ đó trong dân gian truyền tụng: “Kỳ Lân xuất thế, thiên hạ thái bình”. Theo đó, hình ảnh vị sư đó chính là Đức Phật Di Lặc, còn con quái thú đó chính là con Lân. Hình ảnh này, đôi khi ta cũng thường bắt gặp ở các tượng Đức Phật Di Lặc cưỡi trên lưng con kỳ Lân, đó cũng là con linh thú của người. Trong những dị bản khác, cho rằng hình ảnh vị sư thuần phục con Lân đó được thay bằng ông thổ địa. Ở Việt Nam hình tượng đó lại hóa thân trong nhân vật ông Địa với cái bụng phệ to tròn, tay cầm quạt lá, mang mặt nạ, miệng cười rộng toét, hai hàm răng to đều, biểu hiện cho sự vui tươi, lạc quan và trù phú. Ông Địa chỉ huy con Lân, bảo gì Lân cũng phải làm theo trong những lần Lân múa vào những dịp Tết.

      Vũ điệu múa lân – rộn ràng đón Tết

Về hình dáng của Kỳ Lân, cho tới nay chưa ai biết rõ. Tùy trí tưởng tượng, mỗi người diễn tả Kỳ Lân một cách khác nhau. Theo một số tài liệu, Kỳ Lân xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng năm 1600 TCN, là một loại động vật lưỡng tính, được thượng đế phái xuống trần gian với chiếc sừng duy nhất, khác hẳn với các loài động vật có vú. Có sách lại viết Kỳ Lân là loài động vật có lông, mình nai, đuôi trâu, không ăn thịt sống. Có tài liệu lại nói mình nó giống như con hươu, đầu ngựa, đuôi trâu, riêng chiếc sừng thì rất nhọn, biểu thị cho uy quyền và sự sung sức. Triết gia Aristote lại mô tả con Lân là một loài dê núi ở Châu Phi. Tên gọi Kỳ Lân là nói về giới tính của Lân. Theo đó, kỳ là con đực, lân là con cái. Múa Lân là múa con cái với mong muốn sau này gia đình được sung túc, đông con và hạnh phúc. Ý niệm này vẫn tồn tại cho tới cuối thế kỷ XIX, khi một người con gái lên xe hoa sẽ được tặng một tấm ảnh vẽ hình con Lân.

Trong văn hóa phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, thường thời điểm múa Lân từ sau đêm giao thừa đến rằm tháng giêng, xem đó là một trong những nghi thức của lễ hội, nhằm cầu cho quốc thái dân an, cho gia đình tân niên vạn hạnh và mọi sự cát tường. Theo thời gian, việc trang trí, trang hoàng cho các chú Lân ngày càng sắc xảo, cầu kỳ, mình và đuôi Lân là một tấm vải dài hoành tráng, màu sắc hài hòa, lộng lẫy, giàu ấn tượng, trông vẻ uy nghi.

Lân có nhiều dạng khác nhau về kỹ thuật cấu trúc cũng như nghệ thuật múa. Theo đó, khái quát có hai dạng cơ bản là:  Dạng miêu hình, người múa di chuyển trong đầu Lân, nên khung phải rộng để người múa được thoải mái. Và dạng hổ hình, người múa đưa cao đầu Lân để phát huy bộ pháp nhảy và múa tay, nên khung hẹp hơn. Cấu trúc và vẽ màu sắc, cũng tuân theo triết lý ngũ hành (kim – mộc – thủy – hỏa – thổ), song sanh, song sắc, hài hòa hay đối xứng, từ nhạt đến đậm. Có nhiều cách thể hiện mặt Lân. Một là mặt Lân thuần túy là Lân, hoặc là phần trán phải hiện lên đầu rùa (quy) hay phía sau đầu phượng hoàng (phụng) có hai tai là hai cánh bay bay. Phần đuôi là đuôi phụng bảy màu. Đuôi Lân dài hay ngắn phụ thuộc vào yêu cầu biểu diễn, nếu múa Mai hoa thung thì đuôi ngắn (chừng 2 mét) để khi biểu diễn giàn khung, không bị vướng víu. Còn nếu múa lân bám trụ phải dài phủ cột mới đẹp, màu đuôi phải khớp với màu đầu...

Lân cũng được phân chia theo nhiều cấp bậc. Lân râu bạc được giao cho võ sĩ lão luyện điều khiển. Lân râu hoe cũng thuộc vào hạng anh chị nhưng vẫn coi râu bạc là “đại ca”. Lân râu xanh, râu đen thuộc bậc đàn em sẵn sàng phục tùng các bậc đàn anh. Trong nghệ thuật múa Lân, vai trò ông Địa rất quan trọng. Từ thưở xa xưa, ông Địa là sự hiện thân của sự phát tài, vui vẻ, bình an và no đủ. Cho nên tới nhà nào có thờ ông Địa, Lân thường làm lễ vái tạ rồi mới múa. Người thủ vai ông Địa cũng là một võ sĩ có tài, vừa múa vừa chỉ đạo nghệ thuật cho toàn đoàn. Tay trái cầm quạt phe phẩy phát ra những luồng chưởng lực, tay phải dùng quyền sẵn sàng đánh vào mặt Lân! Có lúc nhiều con Lân đồng loạt tấn công nhưng ông Địa vẫn vững vàng tìm cách thoát khỏi trận địa.

Múa Lân (Sư, Rồng) xuất hiện tại Việt Nam từ khá lâu. Đặc biệt, tại Sài Gòn, khu vực Chợ Lớn từ các bang hội người Hoa, tục múa Lân Sư Rồng đã phổ biến nhanh chóng và rộng khắp nơi. Đầu tiên múa Lân chỉ thấy trong những ngày Tết: múa Lân chúc tết từng nhà, múa Lân mừng những dịp lễ hội... Nhưng dần dần xuất hiện quanh năm ở các lễ cưới, hội hè, trên các sàn diễn sân khấu... Múa Lân Sư Rồng thật sự không đơn giản, đòi hỏi nhiều công phu, sử dụng nhiều sức lực, độ nguy hiểm khá cao, do đó tất cả người múa thường đều phải biết võ công và thuộc nhiều phái võ khác nhau. Đó cũng là lý do vì sao, ở Chợ Lớn có nhiều đoàn Lân với tên gọi khác nhau nhưng đều có chung từ “đường” ở cuối tên, có thể hiểu là môn phái võ (đường). Ví như: Đoàn Lân Nhơn Nghĩa Đường thuộc phái Châu Gia, Liên Nghĩa Đường thuộc phái Hồng Gia, Tinh Anh Đường thuộc phái Bạch Mi, Tinh Nghĩa Đường của phái Đường Lang, Thắng Nghĩa Đường thuộc phái Thắng Lý Phật... Như vậy, về võ thuật, các đội Lân chia ra nhiều môn phái: Võ Đang, Côn Lôn, Thiếu Lâm... nhưng không có đội nào theo phái Nga Mi (phái nữ), cho nên từ xưa đến nay chưa có đội Lân nữ ra đời. Một đội Lân muốn tồn tại và phát triển mạnh, tất cả mọi người đều phải tôn trọng môn quy. Các võ sinh luôn luôn được học tập, rèn luyện không những về võ đạo mà còn cả tâm đạo nữa.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã phục hồi và phát huy nghệ thuật múa truyền thống tới mức độ điêu luyện, các nghệ sĩ múa cũng đạt đến những trình độ cao, làm say mê khán giả. Nếu tinh tế, chúng ta sẽ thấy những màn biểu diễn múa Lân của người Việt, có chút khác biệt so với Lân Hồng Kông, Singapor, Thượng Hải, Chợ Lớn. Ví như màn trình diễn “Lân mẫu xuất lân nhi”, con Lân ở các quốc gia khác trông khá mạnh mẽ, diễn võ dương oai, còn Lân người Việt múa là để thể hiện tình cảm nồng nàn đằm thắm vợ chồng. Khi vợ chuyển bụng, chồng đi ra đi vào, khi Lân con được sinh ra, cha mẹ chăm sóc đến khi biết cử động, biết bú mẹ, biết giỡn với cha biết múa theo cha mẹ, được ngồi trên lưng cha mẹ lúc lắc, trông rất hồn nhiên, tình cảm, đậm chất tính cách người Việt.

Con người là chúa tể của muôn loài nhưng đôi khi tỏ ra khiếp sợ trước muôn loài nên mới tưởng tượng ra những con vật linh thiêng hoặc những hình dáng kỳ quái với những dung mạo khác thường mang nhiều sắc thái huyền bí để chiêm ngưỡng, thờ cúng và thỏa mãn nhu cầu tâm lý yêu chuộng hòa bình cùng với khát vọng ấm no, thái bình, thịnh vượng. Nhờ vào mỹ tục múa Lân theo nhịp trống dồn dập, vang dội hòa với tiếng thanh la và tiếng chập chõa vang rền tạo nên một giai điệu hùng tráng như thúc giục mọi người tiến lên cùng hướng về một tương lai rộng mở. Chính tiếng trống Lân và vũ khúc điêu luyện của những nghệ sĩ múa lân đã báo hiệu ngày Tết đến, và làm rộn rã thêm cho ngày xuân, dù rằng không còn tiếng pháo đì đùng như trước, nhưng vẫn mang không khí tưng bừng, làm thích thú cho mọi tầng lớp trong xã hội ước mơ cho một năm mới tốt lành và may mắn.

ThS. Nguyễn Hiếu Tín


Thứ Hai, 16 tháng 1, 2023

MAI VÀNG MANG ĐẾN TIN XUÂN

          Mang vẻ đẹp của sự thanh thoát, bình dị, nhưng ẩn chứa những nét kiêu sa, quý phái, lại có sức sống mãnh liệt, vượt mọi gió sương băng hàn của mùa đông khắc nghiệt, để đâm chồi nảy lộc, báo hiệu mùa Xuân về _ hình ảnh hoa mai từ ngàn xưa đã được cổ nhân lưu dấu trên các loại hình nghệ thuật từ những áng văn thơ tuyệt tác đến những tác phẩm hội họa đầy màu sắc và đặc biệt nhất là để lại ấn tượng khó phai trên các dòng gốm sứ cổ kim, để vẻ đẹp của hoa mai ấy luôn được trường tồn với thời gian.

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

Ở phương Nam cứ mỗi mùa mai nở là lúc tiết trời vào Xuân, thế nên mai được gọi là hoa báo Xuân mai. Cũng thật hữu ý khi trong phương ngữ Nam bộ từ “mai” còn đồng âm với từ “may mắn”. Năm cánh mai nở được ví như là biểu tượng của 5 điều may mắn, cát tường (ngũ phúc lâm môn): phúc, lộc, thọ, khương, ninh. Thú chơi mai ngày Tết do vậy đã trở thành điểm nhấn đẹp của cư dân phương Nam mỗi độ xuân về.

Trong thú chơi cây cảnh, mai là loại cây quý được người xưa rất ưa chuộng và trân trọng. Mai được xếp vào loại “tứ quý” hay “tứ quân tử”: Nếu xếp theo “tứ thời” thì mai ứng vào mùa đông, tượng trưng cho khí phách “xung hàn” – chịu đựng rét mướt qua suốt mùa đông lạnh lẽo nhưng vẫn đâm chồi nảy lộc để bừng nở vào mùa Xuân. Còn nếu xếp theo “tứ quý” thì mai thể hiện vẻ hồn nhiên, lan thì thanh thoát, cúc thì nhàn nhã và trúc thì cứng rắn. Nằm trong “tứ quân tử” (mai, lan, cúc, trúc hay tùng, cúc, trúc, mai), hoa mai là loài hoa đại diện cho những phẩm chất, khí tiết hơn người của bậc đại trượng phu. Không chỉ vậy, mai còn là biểu tượng của sự thuần khiết, thanh cao, vươn mình lên khoe sắc giữa nghịch cảnh nhưng lại không quá phô trương. Đất trời hẳn là hữu ý, nên mỗi nhành cây, nụ hoa đều có nhắn gửi đạo lý cho con người. Chỉ đợi người nán lại, nhìn mà cảm nhận để rồi vỡ òa trong sự giác ngộ mà thôi: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
/Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Mười năm chu du tìm gươm báu 
Một đời chỉ cúi lạy hoa mai)
. Hai câu thơ bất hủ về hoa mai này được người đời gán cho là của Chu Thần Cao Bá Quát. Bởi nó quá phù hợp với hình ảnh người quân tử khí phách, cốt cách thanh cao của ông. Không rõ nguồn gốc thật sự của những câu thơ này là từ đâu, thế nhưng nó đã trở thành một “tuyên ngôn” kính ngưỡng đối với triết lý nhân sinh mà trời đất đã gửi gắm vào trong loài hoa khiêm nhường này.

Trước những cao nhân mặc khách, hoa mai không chỉ là một biểu tượng tuyệt đẹp của khí chất quân tử, mà còn là người bạn tâm giao, là bậc thầy gửi gắm triết lý nhân sinh cho bậc tu hành ngộ đạo bàng bạc trong những áng thơ ca. Cành mai trong thơ, chính là chất liệu của nhân thế, là hơi thở, là tiếng lòng của các nhà thơ miêu tả cái vui mà các nhà thơ cảm nhận bằng hình ảnh cành mai mùa Xuân. Có lẽ, nụ mai nở sớm nhất trong thơ ca Việt Nam lại là đóa hoa nở …muộn. Ấy là cành mai cuối Xuân của thiền sư Mãn Giác (1051 – 1096) được chép trong “Thiền uyển tập anh”. “…Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết/Đêm qua, sân trước, một nhành mai). Chẳng biết cành mai của Vị Thiền sư có hoa hay không. Nhưng dù không phô bày, hoa luôn sẳn có và sẽ nảy ra khi đủ cơ duyên thuận hợp, chỉ trừ trường hợp, cây cành nơi trú của hoa, bị héo khô lìa gãy. Mà cây cành khô gãy cũng chẳng hề chi, bởi mầm hoa bàng bạc khắp nơi, chỗ nào cũng trú mà chẳng trú nơi nào, sẽ nảy sinh vô vàn cây khác. Rõ ràng, Xuân tàn, hoa rụng, thân tàn, đêm tối không phải là dấu hiệu chấm dứt sự sống tốt tươi đẹp đẽ, mà lúc để thiên nhiên con người ngơi nghỉ, ngừng đà vọng đọng hướng ra bên ngoài và thu liễm sinh lực vào bên trong hàm dưỡng. Giống như khi các giác quan không còn bị những sắc hương hiển hiện kích thích, tâm dễ lắng trong, từ đó lộ ra cảnh an vui vốn có. Một thiền sư khác sống sau đó hơn 2 thế kỷ có pháp hiệu Huyền Quang (1254 – 1334), là vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm Yên Tử, từng tôn mai lên ngôi vị ngự sử đài – chức quan trọng giữ trọng trách giám sát và can gián vua chúa: “Ngự sử mai hai hàng chầu rắp/ Trượng phu tùng mấy chặng phò quanh”. Ngự sử mai, trượng phu tùng và quân tử trúc hợp thành “tam ích hữu” (3 người bạn có ích). Khái niệm này xuất phát từ thiên “Quý thị” trong sách Luận ngữ: Ích giả tam hữu: hữu trực, hữu lượng, hữu đa văn (3 bạn có ích gồm 3 hạng: ngay thẳng, rộng lượng và hiểu biết rộng) và được hình tượng hóa thành bộ 3: tùng, trúc, mai là “Đông thiên tam hữu” hay “tuế hàn tam hữu”. Các thi nhân xưa đều lấy mai làm nguồn thi hứng. Vua Lê Thánh Tông có bài “Mai thụ” tức cây mai; Nguyễn Trãi có bài “Lão mai” tức mai già. . Người biết yêu mai sẽ cảm nhận cái đẹp của mai. “Mai trắng tinh khiết thanh tao. Mai vàng nhớ nhung xao xuyến”. Mai đẹp ở sắc, đẹp cả cành. Hương mai kín đáo nhẹ nhàng; do đó, nhà thơ Nguyễn Du có câu: Mai cốt cách tuyết tinh thần / Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.


Mai nở không tàn trên gốm xưa

Trong văn hóa phương Đông hình ảnh hoa mai không chỉ đẹp trong áng thơ, văn cổ mà còn được dùng làm đề tài trang trí rất đa dạng, phong phú trên tranh ảnh và đồ gốm sứ, khiến hoa mai nở trên gốm xưa trở thành vật phẩm rất đỗi quen thuộc hầu hết của nhà sưu tập yêu thích, như những tích: mai điểu, mai cài thọ, tùng trúc mai, mai lan cúc trúc, mai hạc, đạp tuyết tầm mai,.. Ngày nay các hình ảnh ấy đều có thể gặp lại trên các đồ sứ kiểu được vua quan và người quyền quý được triều Nguyễn đặt làm tại Trung Hoa ở thế kỷ 19, hoặc các dòng gốm Việt cổ như: Bát Tràng (Hà Nội), Châu Ổ (Quảng Ngãi), Gò Sành (Bình Định), Cây Mai (Sài Gòn), Lái Thiêu (Bình Dương), Biên Hòa (Đồng Nai),.. Theo đó, nhành mai nổi tiếng trong đồ ký kiểu thời nhà Nguyễn có lẽ là chiếc đĩa trà vẽ đề tài mai hạc, gắn liền với tích truyện quan chánh sứ phẩm của An Nam là đại thi hào Nguyễn Du của năm ấy đi sứ sang Trung Hoa, trong lúc đến thăm lò sứ Ngoạn Ngọc ở Giang Tây, vị chủ lò đã thỉnh cầu Nguyễn Du đề từ cho bộ chén đĩa mai – hạc đang sản xuất. Tác giả của Kiều với “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” đã viết nên câu đối thơ bằng chữ nôm rằng: “Ngêu ngao vui thú yên hà, mai là bạn cũ, hạc là người quen”. Nhành mai vẽ đơn sơ mọc lên cạnh phiến đá lớn, trên đó là chú chim hạc đứng một chân đã trở nên quen thuộc trong giới sưu tập cổ ngoạn. Hay Đặng Huy Trứ (1825 – 1874) một vị quan dưới thời Tự Đức – cũng đã từng đặt đồ sứ ký kiểu để đem về sử dụng mục đích thờ tự, trong số ấy có đĩa trà vẽ tích “đạp tuyết tầm mai”. Hình ảnh này nhắc điển tích Mạnh Hạo Nhiên, nhà thơ thời Thịnh Đường bên Trung Quốc đã cưỡi lừa xông pha sương tuyết đi tìm hoa mai. Các hình ảnh về mai còn thấy trong tích “tuế hàn tam hữu” (ba bạn hữu trong gió rét) mang nét biểu trưng cho Chân – Thiện – Mỹ. Cùng là đề tài mai nở, tương đồng với các đồ sứ ký kiểu, các nghệ nhân gốm cổ Bát Tràng ở thế kỷ 18 – 19 cũng thực hiện các tác phẩm gốm trên đó trang trí hoa mai ... hoặc một nhành mai đứng độc lập, mai cài chữ thọ. Dọc theo “phả hệ” gốm Việt từ phía Bắc trải dài đến phương Nam, hoa mai còn xuất hiện rất nhiều trong các đồ án trang trí, tiêu biểu là hệ thống tiểu tượng trên mái nóc chùa Hoa vùng Chợ Lớn do các lò gốm Đông Hòa, Mai Sơn, Bửu Nguyên tác tạo. Nhưng đề tài hoa mai nở rộ phải kể đến gốm Biên Hòa, một dòng gốm trẻ, sinh sau đẻ muộn nhưng đã từng tạo nên những dấu ấn gây chú ý đặc biệt từ những cuộc triển lãm lớn, giành nhiều huy chương vàng và bằng danh dự ở Paris, New York và các quốc gia lân cận như Thái Lan, Philippin, Nhật Bản, Indonesia, Campuchia suốt từ thập niên 20 đến 50 của thế kỷ 20. Và một trong những dãi đề tài trang trí quen thuộc của gốm Biên Hòa là lối khắc chìm tô men các nhành mai 5 cánh đang đua chen nở. Những bông mai được thể hiện không bằng lối vẽ quen thuộc trên đồ sứ hay cắt dán, đắp nổi như gốm Bát Tràng, gốm Cây Mai mà được khắc chìm và tô men, với lối phối màu rất hiện đại, tạo nên các hiệu ứng hình ảnh đặc biệt, gần gũi quen thuộc cả với văn hóa Á – Âu. Cũng như các thi nhân, mỗi nghệ nhân tạo tác hoa mai theo từng khía cạnh khác nhau tùy theo quan điểm của mình nhưng tựu trung vẫn là ca ngợi nét đẹp thuần túy, thanh bạch, tinh khiết của hoa mai.

Nhân dịp Xuân về, bên tách trà, chung rượu, tĩnh lặng ngắm nhìn những bông hoa rực rỡ được đặt vào những bình gốm xưa với hình ảnh mai vàng khoe sắc thắm, thưởng ngoạn những điển tích cổ kim về truyện tích hoa mai, cũng là dịp khám phá những câu chuyện dài về văn hóa, lịch sử, mỹ thuật, kỹ thuật, niên đại... và điều hấp dẫn rằng, những nhành mai nở ấy mang nét đẹp vĩnh cửu, không tàn úa, vẻ đẹp vượt mãi cùng thời gian. Hoa mai nở rộ là biểu hiện của điềm tốt lành cho năm mới, tượng trưng cho sự đầy đủ, trọn vẹn của cuộc sống. Đó cũng là lời chúc tốt lành nhất dành cho những nhà sưu tập cổ ngoạn với những đồ án, hoa văn trang trí hình hoa mai và cùng là lời ước vọng đầu Xuân cho tất cả mọi người đang đón chào năm mới.

Hiếu Nguyễn

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2023

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI HỌC SINH, SINH VIÊN VIỆT NAM

 Với bất kì quốc gia nào trên thế giới, thanh niên, học sinh, sinh viên chính là tương lai của đất nước, là lực lượng nòng cốt để xây dựng đất nước giàu mạnh, phát triển. Chính vì thế mà lúc sinh thời, Bác Hồ hết sức quan tâm tới lực lượng “rường cột” này của nước nhà.




Khoảng tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Bác đã khẳng định: Nước nhà trông mong, chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có thể trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Người luôn quan tâm sâu sắc tới công tác giáo dục thế hệ trẻ, tư tưởng, lý luận và tình cảm của Người đã để lại những bài học thực tiễn còn nguyên giá trị cho tới tận ngày nay và mãi về sau. Người không chỉ nêu lên vai trò hết sức quan trọng của học sinh, sinh viên mà còn nhấn mạnh trọng trách khó khăn nhưng vinh quang của các em, đó là bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Để làm được điều đó, các thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam cần cố gắng, ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức sống; học để biết, học để làm, học để trở thành những chiến sĩ tiên phong trên còn đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 Có thể nói, công tác giáo dục thế hệ trẻ ngay từ bậc mầm non, tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành, rèn luyện đạo đức và nhân cách con người đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để trẻ có nền tảng phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học”, dạy dỗ trẻ nhỏ không thể theo cảm tính của người lớn, càng không phải là “cách thức giáo dục” giống như những hiện tượng xã hội mà báo đài, dư luận rầm rộ đưa tin: Thầy cô đánh chửi học trò, giáo viên ngược đãi trẻ mầm non, học sinh tiểu học còng lưng vì vác cặp sách quá nặng, rồi nạn dạy thêm, học thêm tràn lan dẫn tới quá tải, vô tình đánh mất đi tuổi thơ của các em…Không phải tất cả những gì mà người lớn chúng ta cho là đúng, là tốt thì đều đúng và tốt cho trẻ em. Chính vì thế, cần có những nghiên cứu khoa học nghiêm túc và kĩ lưỡng trong công tác giáo dục lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng cả về tâm sinh lý cũng như ảnh hưởng của môi trường sống xung quanh tác động đến trẻ nhỏ để tìm ra phương pháp dạy dỗ khoa học, hợp lý. Về vấn đề này, Bác đã nêu lên một luận điểm mang tính cốt lõi, đó là cách dạy trẻ phải “giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hóa ra những người già sớm”. Bác thường nhắc nhở: “chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”. Tư tưởng tiến bộ đó của Người đã cho chúng ta nhận thấy giá trị quan trọng của công tác giáo dục nhi đồng nói riêng và sự nghiệp giáo dục nói chung - sự nghiệp đó phải thực sự khoa học và nghiêm cách. Đây chính là kim chỉ nam hành động để các nhà giáo dục làm tốt hơn công tác giáo dục nhi đồng hiện tại và tương lai.

 Đối với việc chăm lo đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng thanh niên, trong đó có lớp thanh niên trí thức - những thanh niên, sinh viên đang được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng được Bác dành sự quan tâm đặc biệt. Ở lứa tuổi thanh niên, sinh viên, việc giáo dục đào tạo không phải là “cầm tay chỉ việc”, uốn nắn từng chút một, mà quan trọng là phải truyền được cho các em tinh thần tự học, tự khám phá, chủ động, sáng tạo, giúp các em định hướng được mục đích của việc tự học tập, tự xác định được con đường phấn đấu cho tương lai. Chỉ như vậy các em mới có thể kiên trì trên con đường học tập theo phương châm “học, học nữa, học mãi” của lãnh tụ Lê-nin vĩ đại.

Bác yêu cầu sinh viên: “Phải hiểu rõ học thế nào? Học cái gì? Học để làm gì?”. Tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II, ngày 7.5.1958, Bác nhấn mạnh: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt hai câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát thì mới có phương hướng”. Bác chỉ rõ: “Dưới chế độ thực dân, phong kiến, mục đích đi học là cốt được mảnh bằng để làm ông thông, ông phán, lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp. Thế thôi. Số phận dân tộc thế nào, tình hình thế giới biến đổi thế nào, không hay, không biết gì hết. Mục đích giáo dục nô lệ hầu hạ chúng. Ngày nay ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ tương lai của nước nhà. Muốn xứng đáng vai trò là người chủ thì phải học tập. Học bây giờ với học dưới chế độ thực dân, phong kiến khác nhau”, “Học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và quân sự” và “Học để phụng sự ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”. Từ đó có thể thấy, nhiệm vụ của thanh niên trí thức thời đại mới không chỉ là ra sức học tập để làm chủ được tri thức, công nghệ mới, mà còn phải xác lập được cho mình lý tưởng cộng sản đúng đắn. Lý tưởng đúng đắn chính là cứu cánh, là vũ khí sắc bén trong đấu tranh chống lại cái xấu, chống lại những cám dỗ bên ngoài, giúp thanh niên vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn để hoàn thành mục tiêu.

  Đặc biệt trong xã hội hiện tại, khi mà các giá trị tinh thần cũ và mới đan xen, một bộ phận không nhỏ thanh niên, sinh viên có lối sống buông thả, vị kỉ, cá nhân, thờ ơ, vô cảm với thời cuộc, chìm đắm trong các trò chơi điện tử, trong cuộc sống ảo trên mạng, vùi mình trong các cuộc ăn chơi, đua đòi… thì những lời dạy của Bác càng có giá trị lớn lao hơn bao giờ hết. Nhưng làm thế nào để những lời dạy quý báu đó của Người thấm nhuần tới được với học sinh, sinh viên, giúp các em hình thành được lý tưởng và nếp sống đúng đắn? Trách nhiệm đó không chỉ của riêng ai, mà là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của các bậc làm cha làm mẹ, của các nhà giáo dục, các nhà quản lý trong lĩnh vực có liên quan tới thanh thiếu niên.

 Trong vấn đề học tập, Bác không chỉ nhắc nhở học sinh, sinh viên mà là thanh niên Việt Nam nói chung, Bác đã chỉ ra: “Làm nghề gì cũng phải học” và mục đích của việc học là để “nâng cao năng lực làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống nhân dân càng no ấm, vui tươi”. Điều đó có nghĩa rằng ngay cả đối với một bộ phận thanh niên không theo học đại học, cao đẳng, thì việc học cũng luôn là việc hết sức quan trọng. Học từ các lớp dạy nghề, học từ kinh nghiệm cuộc sống, từ người đi trước, tự học… để nâng cao lối sống tích cực, trau dồi kĩ năng nghề nghiệp để ứng dụng được kiến thức vào lao động sản xuất và làm ăn kinh tế nhằm làm giàu cho bản thân cũng như xã hội.

  Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn lưu ý học sinh, sinh viên rằng, để việc học tập thành công và trở nên hữu ích thì học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải đi cùng thực tiễn. Bác nói: “Chỉ biết lý luận (lý thuyết) mà không biết thực hành thì cũng là trí thức có một nửa. Vì vậy cho nên các cháu trong lúc học về lý luận thì cũng phải kết hợp với thực hành”, “lý luận phải gắn liền với thực tế”. Đồng thời Bác nhắc nhở các nhà trường “không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu…”….Bác nhấn mạnh thêm: “Cần có lao động, lao động trí óc và lao động chân tay. Và cần lao động trí óc kiêm lao động chân tay, nghĩa là lao động chân tay cũng phải có văn hoá, mà người lao động trí óc cũng phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí óc không làm được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao động bán thân bất toại…”. Điều đó có nghĩa rằng học sinh, sinh viên không chỉ học kiến thức sách vở, mà còn phải được thường xuyên nâng cao năng lực thực hành, biết dùng đôi bàn tay để trực tiếp ứng dụng được những kiến thức tiếp thu được. Để đạt được mục tiêu này, vai trò rất lớn thuộc về nhà trường và các cấp quản lý giáo dục, cần phải tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên được làm thực hành, thí nghiệm nhiều hơn, thường xuyên tổ chức cho các em tham quan, thực tập trong các nhà máy, xí nghiệp sản xuất; kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp nhằm tạo ra nguồn cung lao động có số lượng và chất lượng phù hợp với nguồn cầu của thực tế sản xuất. Với những phân tích trên, chúng ta có thể thấy, tư tưởng và những lời căn dặn của Bác vẫn còn nguyên tính thời sự, giá trị lý luận và bài học thực tiễn sâu sắc, đó là bài học về việc phương pháp đào tạo dạy và học thực chất, sáng tạo, nói không với bệnh thành tích, học phải đi đôi với thực hành, kiến thức phải đi đôi với kỹ năng.

 Ngoài việc học tập, trau dồi kiến thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn thế hệ trẻ phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống. Bác nhấn mạnh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. “Đức”, ở đây như Bác nói là đạo đức, đạo lý làm người mà với thời đại chúng ta, Bác yêu cầu rèn luyện để có đạo đức cách mạng. Bác giải thích đạo đức cách mạng rất giản dị, cụ thể: “Đạo đức cách mạng không phải là những điều cao siêu, xa lạ mà đối với mỗi người bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm một việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Bác coi “đạo đức là cái gốc của người cách mạng” và Bác nêu lên cách thức phấn đấu, rèn luyện đạo đức cách mạng: “Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, tức là học tập, lao động, sinh hoạt theo đúng đạo đức của thanh niên xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa”, “Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo tự mãn”.

 Để loại bỏ chủ nghĩa các nhân, Bác chỉ rõ: “Muốn sửa chữa chủ nghĩa cá nhân thì phải làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã. Ta có câu nói: “khó nhọc thì mình nên đi trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; làm việc gì mình cũng nghĩ đến lợi ích chung trước và lợi ích riêng sau. Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt lại câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát thì mới có phương hướng sửa chữa khuyết điểm của mình”.

 Từ lúc sinh thời và cho đến khi Bác về với “thế giới người hiền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu thương bao la, sâu sắc nhất. Người đã khẳng định: Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà...Chính vì thế, việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ luôn là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của toàn xã hội, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa”. Nhớ lời dạy của Bác kính yêu, mỗi thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam “cần phải có chí tự động, tự cường, tự lập; Phải có khí khái ham làm việc, chứ không ham địa vị; Phải có quyết tâm, đã làm việc gì thì làm cho đến nơi đến chốn, làm cho kỳ được; Phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi, học luôn, học mãi. Học văn hoá, học chính trị, học nghề nghiệp..”; những nhà quản lý giáo dục, những thầy cô giáo - là những người có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp trồng người, hãy luôn khắc ghi những lời Bác căn dặn, coi đó là kim chỉ nam định hướng cho triết lý giáo dục hiện đại nhằm tìm ra giải pháp đưa nền giáo dục nước nhà phát triển tích cực và bền vững, góp sức vào công cuộc CNH-HĐH đất nước, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

Huyền Trang (tổng hợp)

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2023

BÁC HỒ VỚI TẾT MẬU THÂN 1968

 


Suốt 2 tháng đầu năm Mậu Thân 1968, trên toàn chiến trường miền Nam không lúc nào ngớt tiếng súng. Mục tiêu lớn của chiến dịch đã đạt được, ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá vỡ một mảng lớn hệ thống chính quyền của chúng, làm giảm ý chí chiến tranh của những kẻ hiếu chiến trong giới lãnh đạo Mỹ.

Giữa năm 1967, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta xuất hiện tình thế mới, có lợi cho ta. Ngày 28-12-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị (Khóa III) họp quyết định một chủ trương hết sức quan trọng: Mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968 nhằm giáng đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Ngay sau đó, công tác chuẩn bị được tiến hành chu đáo, công phu, tỉ mỉ và hoàn toàn bí mật. Tháng 1-1968, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (Khóa III) thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967, khẳng định quyết tâm, mục tiêu và hướng tiến công chiến lược. Ở miền Nam, các binh đoàn chủ lực, theo kế hoạch đang bí mật áp sát vào bàn đạp tiến công. Chỉ thị cụ thể của Bác Hồ cho các chiến trường là:

 

Kế hoạch phải thật tỉ mỉ

Hợp đồng phải thật ăn khớp

Bí mật phải thật tuyệt đối

Hành động phải thật kiên quyết

Cán bộ phải thật gương mẫu.

 

Theo lời kể của đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký riêng của Bác thì Người đã chuẩn bị thư chúc Tết Mậu Thân 1968 từ độ ba tháng trước đó. Sáng chủ nhật ngày 31-12-1967, Bác ra Phủ Chủ tịch để đọc ghi âm thư chúc Tết. Chị Trần Thị Tuyết ngâm bài thơ chúc Tết vừa để Bác nghe vừa để ghi âm phát lúc giao thừa. Sáng ngày 1-1-1968, Bác gửi Thư Chúc mừng năm mới tới toàn thể cán bộ và đảng viên cả nước. Trong thư, Bác gửi lời chúc mừng đến các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước bầu bạn và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta; chúc kiều bào ta ở nước ngoài, năm mới cố gắng mới, tiến bộ mới! Đối với đồng bào và chiến sĩ cả nước, Bác chúc:

 

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,

Thắng trận tin vui khắp nước nhà.

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta!

 

Cũng theo đồng chí Vũ Kỳ, chiều 29 Tết, Bác Hồ nhận điện của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng chúc tết Bác. Tối đêm giao thừa nơi Bắc Kinh xa xôi, hai Bác cháu ngồi im lặng trong phòng, mở Đài Tiếng nói Việt Nam nghe tin tức, ca nhạc và ngâm thơ Tết, chờ đón giao thừa. Từ khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng (năm 1941), đây là lần đầu tiên Bác đón giao thừa ở nước ngoài. Thời gian trôi đi chầm chậm. Rồi, bên ngoài, tiếng pháo nổ vang, tiễn Đinh Mùi và đón mừng Mậu Thân, từ chiếc đài bán dẫn, tiếng nói của Bác Hồ vang lên:

 

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,

Thắng trận tin vui khắp nước nhà.

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta!

 

Lời thơ chúc Tết của Bác đồng thời cũng là hiệu lệnh mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy và truyền đi khắp mọi miền đất nước mà trọng điểm là 3 thành phố lớn: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế. Tại Sài Gòn, quân ta đã đánh thẳng vào Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu, Đài Phát thanh và rất nhiều mục tiêu chiến lược của địch khác…. Khi đài phát xong câu cuối “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”, Bác nói khẽ: “Giờ này, miền Nam đang nổ súng!”.

 

Trưa mồng một Tết, Bác Hồ rất vui khi nhận được tin chiến thắng : “Đánh khắp miền!”. Mồng 6 Tết, nhằm ngày 3-2-1968, kỷ niệm 38 năm Ngày thành lập Đảng, mới 6 giờ sáng, Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ chuẩn bị giấy bút. Bác ngồi cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài trời đầy tuyết trắng, đọc cho đồng chí Vũ Kỳ ghi bài thơ khai bút đầu năm:

 

Đã lâu chưa làm bài thơ nào

Nay lại thử làm xem sao

Lục khắp giấy tờ vần chẳng thấy

Bỗng nghe vần THẮNG vút lên cao!

 

Suốt 2 tháng đầu năm Mậu Thân 1968, trên toàn chiến trường miền Nam không lúc nào ngớt tiếng súng. Mục tiêu lớn của chiến dịch đã đạt được, ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá vỡ một mảng lớn hệ thống chính quyền của chúng, làm giảm ý chí chiến tranh của những kẻ hiếu chiến trong giới lãnh đạo Mỹ. Vần “THẮNG” của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom và đánh phá miền Bắc, thừa nhận chính thức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ngồi vào bàn đàm phán tại Paris để giải quyết chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 là tiền đề quan trọng cho thắng lợi hoàn toàn mùa Xuân năm 1975.

Theo qdnd.vn

  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...