Thứ Hai, 28 tháng 11, 2022

KỶ NIỆM 202 NĂM NGÀY SINH PH. ĂNG-GHEN (28/11/1820 - 28/11/2022)


KỶ NIỆM 202 NĂM NGÀY SINH PH. ĂNG-GHEN

(28/11/1820 - 28/11/2022)

LÃNH TỤ THIÊN TÀI, NGƯỜI THẦY VĨ ĐẠI CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN
















Ph. Ăngghen là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã cùng Các Mác xây dựng nên lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động.

Ph. Ăngghen sinh ngày 28/11/1820 tại thành phố Barơmen, vương quốc Phổ (ngày nay là nước Đức). Ông sinh sống, thâm nhập thực tiễn vào phong trào cách mạng ở nhiều nước khác nhau để tìm hiểu cuộc sống người dân.

Xuất thân từ một gia đình tư sản, nhưng Ph. Ăngghen đã hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, Ông là người bạn, người đồng chí gần gũi nhất của C. Mác, đã cùng C. Mác xây dựng nên chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Trong nhiều thập kỷ, Ph. Ăngghen ra sức nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, mà trước hết và trực tiếp là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp. Quá trình nghiên cứu lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn phong phú, sinh động của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Từ đó, Ông đã cùng với Mác, xây dựng nên một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, bao gồm triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Cái đặc sắc nhất là hai ông đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; xây dựng lý luận giá trị thặng dư chỉ ra các quy luật chi phối sự vận động, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Đây chính là vũ khí tư tưởng cho giai cấp công nhân; là những trụ cột của cả một hệ thống đồ sộ!

Rất nhiều tác phẩm cơ bản của chủ nghĩa Mác là do Mác và Ăngghen cùng viết. Tiêu biểu nhất là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Nhiều công trình nghiên cứu của Ăngghen là sự phát triển những tư tưởng hình thành trong quá trình trao đổi thường xuyên với C. Mác. Về phía mình, nhiều tác phẩm của C. Mác được viết với những ý tưởng và kiến thức của Ăngghen. Lênin cho rằng: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăngghen”. Ăngghen còn sát cánh cùng C. Mác trong truyền bá tư tưởng cách mạng, xây dựng các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân, trở thành lãnh tụ của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nước châu Âu ở nửa cuối thế kỷ XIX. Lênin kết luận: “Sau bạn ông là Các Mác, Ph. Ăngghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”.

Ăngghen được ngưỡng mộ, kính trọng không chỉ bởi trí tuệ của một nhà bác học, lòng dũng cảm, nhiệt huyết của một chiến sỹ cách mạng vĩ đại, mà còn bởi phẩm chất cao cả thể hiện trong tình bạn, tình đồng chí khăng khít, thủy chung, cảm động, hiếm có với Mác. Người tự nhận mình là “cây vĩ cầm số 2” bên cạnh Mác. Lênin khẳng định: “Giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học kiêm chiến sỹ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.

Sau khi Mác qua đời, Ăngghen đã tập trung thời gian, công sức để thực hiện một công việc vô cùng nặng nề, hết sức khó khăn, mà chỉ Ông mới có thể làm được, đó là chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản tiếp tục các bản thảo còn lại của bộ “Tư bản”- tác phẩm lớn nhất, vĩ đại nhất của Mác. Lê-nin cho rằng, thông qua công việc quan trọng này: “Ăngghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ăngghen cũng không ngờ là đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ được”. Ngoài ra, Ông còn tiếp tục truyền bá sâu rộng những tư tưởng của Mác, đấu tranh bảo vệ và phát triển học thuyết Mác...

Từ khi xuất hiện, chủ nghĩa Mác đã luôn bị các trào lưu tư tưởng đối lập phê phán, đả kích. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, các thế lực thù địch coi đây là thời cơ lớn, đẩy mạnh tấn công, xuyên tạc, vu cáo, bác bỏ... Điều này không có gì là khó hiểu! Vì thế, phải bằng tinh thần khoa học và cách mạng, chúng ta tiếp tục đấu tranh bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của mình, phù hợp với tinh thần mác-xít, phù hợp với tính chất, đặc điểm mới của thời đại!

Ngày nay, mặc dù tình hình có nhiều thay đổi so với thời điểm đó, nhưng tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về công tác xây dựng Đảng vẫn còn nguyên giá trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là nền tảng tư tưởng và hành động cho các Đảng Cộng sản trên thế giới, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi “Chủ nghĩa Mác - Lênin là cái cẩm nang thần kỳ”; luôn vận dụng sáng tạo, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là bằng chứng, khẳng định sự đúng đắn, vai trò và ý nghĩa to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Ăngghen là một trong những lãnh tụ sáng lập. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Hội Nghị Trung ương 4, khóa XIII về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” và tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, vì vậy việc học tập, noi gương nhân cách người chiến sĩ cộng sản mẫu mực của Ph. Ăngghen càng có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao đạo đức cách mạng của người đảng viên, góp phần giữ vững bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản, vì nhân dân mà phục vụ.

CQ

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2022

VANG VỌNG MÃI LỜI BÁC VỀ NGÀY NAM BỘ KHÁNG CHIẾN

 

Trong đoạn cuối bản “Tuyên ngôn độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.



Ngày 23/9/1945, chỉ sau 21 ngày Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” tại quảng trường Ba Đình lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, thực dân Pháp với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa đã nổ súng gây hấn tại Nam bộ. Nhân dân Nam bộ đã phải bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, mở đầu cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đồng thời biểu thị ý chí sắt son của quân và dân cả nước “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ!”

Các nhà sử học đều chung một nhận định: Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam lại nhiều kẻ thù đến thế. Chính quyền cách mạng vừa mới ra đời, vận mệnh dân tộc đã đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Vào thời điểm cách mạng Việt Nam đang giữa cơn phong ba bão táp ấy, thiên tài Hồ Chí Minh đã tỏa sáng rực rỡ với sứ mệnh lịch sử lái con thuyền cách mạng vượt mọi thác ghềnh. Ở Hà Nội, vừa lo đối phó với bọn Tưởng và bè lũ tay sai ở miền Bắc, Bác và Thường vụ Trung ương Đảng hàng giờ theo dõi chặt chẽ diễn biến phức tạp ở miền Nam. Bác căn dặn nhân dân Nam bộ bình tĩnh, nhân nhượng để giữ vững nền hòa bình. Nhưng dã tâm của thực dân Pháp là muốn đô hộ nước ta lần nữa và ngày 23/9 chúng đã nổ súng đánh chiếm sở cảnh sát, trụ sở UBND, nhà máy điện, kho bạc..., chúng đã buộc nhân dân ta phải cầm súng để bảo vệ nền độc lập tự do vừa mới giành được từ tay Nhật.

Sáng ngày 23/9/1945, cuộc họp gồm các đồng chí Hoàng Quốc Việt (Thường vụ Trung ương Đảng), Ung Văn Khiêm, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Nguyễn, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Văn Tiểng... đã quyết định vừa gửi điện xin chỉ thị Bác và Trung ương Đảng, vừa phát động nhân dân đứng lên chống quân xâm lược. Ủy ban Kháng chiến Nam bộ được thành lập do đồng chí Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Chiều ngày 23/9, Ủy ban Kháng chiến Nam bộ ra Tuyên cáo quốc dân khẳng định: “Cương quyết phấn đấu, toàn dân hãy đoàn kết để bảo vệ quốc gia”. Quân và dân Nam bộ, mở đầu là Sài Gòn - Chợ Lớn đã nhất tề đứng dậy, thay mặt nhân dân cả nước mở đầu cuộc kháng chiến.

Ngày 26/9/1945, qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Bác Hồ gửi gắm lòng mình qua lời kêu gọi: “Hỡi đồng bào Nam bộ! Nước ta vừa tranh quyền độc lập, thì đã gặp nạn ngoại xâm (…). Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam bộ. Chúng ta nên nhớ lời nói oanh liệt của nhà đại cách mạng Pháp “Thà chết tự do hơn sống nô lệ” (…). Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính đáng”. Người còn căn dặn chân tình tâm huyết: “Đối với người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh… phải đối đãi với họ khoan hồng. Phải làm cho thế giới, trước hết là làm cho dân Pháp biết rằng: chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do, chứ chúng ta không vì tư thù tư oán, làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước”.  

Hưởng ứng lời hiệu triệu của Chính phủ, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắp các địa phương Bắc - Trung - Nam sục sôi hướng về Nam bộ “Cương quyết giành độc lập”, “Ủng hộ cuộc kháng chiến anh dũng của đồng bào Nam bộ”, phát động “Quỹ ủng hộ Nam bộ”, thanh niên nô nức tòng quân, các chi đội Nam tiến gấp rút lên đường vào Nam chiến đấu... Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã triển khai nhiều biện pháp để bảo vệ thành quả cách mạng, các địa phương Nam bộ ra sức củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang. Chiến trường Nam bộ thật sự quy tụ sức mạnh cả nước đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.

Có thể nói, Bác Hồ đã quan tâm chỉ đạo ngay từ đầu, xuyên suốt và dành những tình cảm đặc biệt cho Nam bộ kháng chiến. Người thay mặt đồng bào cả nước tặng đồng bào Nam bộ danh hiệu: “Thành đồng Tổ quốc”. 67 năm đã đi qua, những năm tháng hào hùng ngày ấy vẫn còn in đậm trong tâm trí của biết bao người. Lịch sử đã ghi những trang oanh liệt nhất, đánh dấu thêm một mốc son chói lọi kể từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác. Và như một sự liên kết không thể tách rời, khí thế hào hùng của ngày Nam bộ kháng chiến vẫn còn vang mãi trong lòng mỗi chúng ta. “Mùa thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Rền khắp trời, lời hoan hô, dân quân Nam nhịp chân tiến ra trận tiền …”, những lời ca trong bài hát “Nam bộ kháng chiến” gợi cho chúng ta nhớ về một giai đoạn quật khởi của vùng đất Nam bộ “Thành đồng Tổ quốc”. Mùa thu năm ấy luôn là niềm tự hào, là nguồn động viên nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ vững bước tiến lên trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu đẹp dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.

 

NGUYỄN VĂN THANH

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2022

BÁC HỒ VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

 

Sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ nói chung, công tác dạy học nói riêng. Người đã dạy rằng: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa.

 



  Con người mà Bác mong muốn đào tạo không chỉ có lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng, có lí tưởng cách mạng, phẩm chất, đạo đức mà còn phải có tri thức khoa học, kĩ năng lao động sản xuất… Có như vậy thì dân tộc ta mới có sức mạnh tinh thần và thể chất để vượt bao khó khăn, gian khổ trong chinh phục thiên nhiên, chiến thắng giặc ngoại xâm, đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc, văn minh, tiến bộ, thích ứng về với thời đại, xã hội mới. Qua những bài nói, bài viết của Người về giáo dục - đào tạo và dạy học, có thể rút ra một số nội dung cơ bản sau:

 Về mục tiêu của giáo dục và dạy học

 Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết ngay. Trong đó, vấn đề thứ hai là “nạn dốt”. Nạn mù chữ của nhân dân ta được Người coi là một thứ giặc nguy hại không kém gì giặc ngoại xâm. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”[1].

 Bác chỉ ra rằng nền giáo dục mới và nhà trường mới phải thực hiện hoạt động dạy và học theo mục tiêu: Học để làm việc, làm người, làm cán bộ; học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại; học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng và học để hành.

 Trong bài “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng”, kí tên TL. đăng trên báo Nhân dân số 5526, ngày 1-6-1969, Người viết: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm sóc và giáo dục tốt cho các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ... Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”.

 Trong Di chúc, Bác viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[2].

 Như vậy, mục tiêu cao cả của giáo dục là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, bồi dưỡng những chủ nhân tương lai của nước nhà.

 Về nhiệm vụ và nội dung dạy học

 Trong công tác dạy học, người thầy giáo chẳng những phải cung cấp tri thức, phát triển năng lực nhận thức, mở mang trí tuệ cho người học, mà còn phải hết sức chú ý bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cho họ, tức là giáo dục toàn diện. Ngày 21/10/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của nhà trường, Người đã nói: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”[3]. Người nêu rõ: trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kĩ thuật, lao động và sản xuất. Đây là những nội dung giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam.

 Về vai trò, vị trí quan trọng của người thầy

 Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của những thầy giáo, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Người đánh giá cao sứ mệnh của người thầy: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh... Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”[4].

 Để hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang đó, mỗi người thầy giáo, cô giáo phải không ngừng rèn luyện để luôn tiến bộ, phải có kiến thức và phương pháp giảng dạy tốt, có nhân cách đạo đức và có tình thương yêu học sinh, say mê với nghề nghiệp. Bác chỉ rõ trách nhiệm của người thầy giáo, cô giáo: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức ... Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”[5].

 Về phương pháp và phong cách dạy học

 Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ làm rõ về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của giáo dục và dạy học, mà còn định hướng cho chúng ta khi xác định phương pháp và phong cách dạy học. Điều đó thể hiện ở những quan điểm sau:

 - Học phải đi đôi với hành, lí luận phải gắn liền với thực tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng kết hợp lí luận với thực tế là một nguyên tắc rất quan trọng. Bác nêu rõ mối quan hệ giữa lí luận và thực hành: Lí luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lí luận. Lí luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên, vì vậy mỗi người phải gắng học, đồng thời học thì phải hành.

 - Dạy học phải chú ý đặc điểm đối tượng, phải biết dạy cho ai. Bác đã chỉ ra rằng: Muốn cho việc dạy học không xa rời quần chúng, điều kiện cơ bản đối với người thầy giáo là phải sát đối tượng, phải đóng giày theo chân chứ không thể khoét chân cho vừa giày. “Chân” ở đây là quần chúng, là học sinh. Người thầy giáo phải là người thợ giày tận tụy và lành nghề. Muốn vậy, phải đi sâu, đi sát để tìm hiểu tâm tư, mắc mớ của học sinh, từ đó, tìm ra con đường giải quyết hợp lí việc dạy học, tuyên truyền.

 - Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Khi nói chuyện với các anh em ở lớp nghiên cứu chính trị khóa I của trường Đại học Nhân dân Việt Nam (1956), Bác Hồ đã căn dặn mọi người: Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân. Lênin khuyên chúng ta: Học, học nữa, học mãi. Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó.

 Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Từ Ðại hội lần thứ VI (1986) đến Ðại hội lần thứ XI (2011) của Ðảng, cũng như  trong các văn kiện quan trọng của Ðảng và Nhà nước, giáo dục và đào tạo và luôn luôn được khẳng định là "quốc sách hàng đầu", là "động lực của sự phát triển đất nước". Phát triển giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ đủ sức gánh vác sứ mệnh đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu, đó là kỳ vọng của Bác Hồ đối với thế hệ trẻ, cũng là khát vọng cao đẹp của nhân dân, đất nước ta.

 --------------------------------

 [1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000, tập 4, tr.8.

 [2] Sách đã dẫn (Sđd), tập 12, tr.498.

 [3] Sđd, tập 11, tr.329.

 [4] Sđd, tập 11, tr.331-332.

 [5] Sđd, tập 9, tr.492.

(Nguồn: Tạp chí Xây Dựng Đảng)

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2022

NHỮNG LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ VỀ CÔNG TÁC MẶT TRẬN

 

Với tư duy khoa học, đại chúng và hiện đại, Bác Hồ từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã sớm thấy vai trò rất to lớn của Mặt trận. Lời dạy của Bác, nay đã trên nửa thế kỷ, nhưng vượt thời gian, không gian, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.


Về quan hệ giữa Đảng với Mặt trận, Bác nói: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thật nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới dành được địa vị lãnh đạo”.

Về cương lĩnh của Mặt trận, Bác nói: “Ai cũng phải thừa nhận rằng: Cương lĩnh Mặt trận rất vững chắc, rất rộng rãi và thiết thực”.

Thiết thực, vì nó hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng thiết tha của toàn thể đồng bào từ Bắc đến Nam. Trừ một nhóm rất nhỏ đã bán lương tâm cho đế quốc Mỹ, người Việt Nam ai chẳng muốn thống nhất nước nhà và thống nhất theo phương pháp hoà bình. Cho nên nếu tất cả mọi người trong Mặt trận đều ra sức tuyên truyền, giải thích cho nhân dân đều hiểu thì tuyệt đại đa số nhân dân ta sẽ hoan nghênh và ủng hộ cương lĩnh của Mặt trận.

Rộng rãi, vì cương lĩnh đã nói rằng: Mặt trận sẵn sàng hoan nghênh tất cả những người thật thà phản đối âm mưu của Mỹ Diệm chia cắt đất nước, thật thà tán thành thống nhất nước nhà. Mặt trận sẵn sàng đoàn kết tất cả những người yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo… Như vậy là Mặt trận sẽ bao gồm những người hiện nay tỏ ra thành tâm thành ý phụng sự Tổ quốc, dù trước đây họ đã theo phe phái nào.

Vững chắc, vì Mặt trận dựa trên nền tảng đại đa số nhân dân trong nước là đồng bào công nhân và đồng bào nông dân, đồng thời chú trọng đến tất cả các tầng lớp xã hội trong nước ta, không bỏ sót một ai.

Trong nước, Mặt trận được đại đa số nhân dân ta ủng hộ, trên thế giới Mặt trận sẽ được ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình. Sự thiết thực, rộng rãi, vững chắc ấy làm cho tiền đồ của Mặt trận rất vẻ vang… Chúng ta có thể tin chắc rằng: Với sự cố gắng của mọi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.

Về chính sách Mặt trận Dân tộc thống nhất, Bác nói: “Chắc mọi người đã thấy rõ, Chính sách Mặt trận Dân tộc thống nhất của Đảng ta đã đưa lại những thắng lợi to lớn: Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng Miền Bắc.

Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh… Đồng bào kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống, chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…

Giang sơn và chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc của chúng ta đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.

Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau để mưu toan hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.

Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta…”

“... Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang…”

“Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo.

… nguyện vọng của đồng bào giáo dân là: “Phần xác no ấm, phần hồn thong dong”

Muốn được như thế thì phải ra sức củng cố hợp tác xã sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên. Đồng thời phải bảo đảm tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước”.

Muốn làm tốt những việc nói trên, cán bộ và đảng viên:

- Phải thông suốt và thực hiện đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đồng thời phải giải thích cho mọi người hiểu thật thấu và làm cho đúng.

- Phải đi đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, tổ chức, giáo dục, động viên nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Chúng ta phải thật sự dân chủ với nhân dân và chuyên chính với bọn phản cách mạng, bọn phá hoại lợi ích của nhân dân.

- Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và Đảng viên không được tự cao, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người.

Cán bộ làm tốt công tác Mặt trận phải tích cực và phải chủ động giúp cấp ủy lãnh đạo công tác Mặt trận, phổ biến và thực hiện chính sách của Đảng về Mặt trận, làm việc phải kiên nhẫn, phải tha thiết với công tác Mặt trận”.

“… Chính sách Mặt trận là một Chính sách quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng. Các cán bộ và đảng viên ta cần nắm vững và chấp hành đúng Nghị quyết Bộ Chính trị về vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”²

BBT

  BÁC HỒ VỚI "TẾT TRỒNG CÂY" Tết Canh Tý năm 1960, trong không khí sôi nổi mừng Đảng, mừng xuân, sáng ngày 11/01/1960, Chủ tịch ...